Danh mục

Phép châm điều trị (Kỳ 4)

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 182.71 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Lưu kim và thao tác Thông thường, sau khi đã châm kim và gây được cảm giác châm, người ta tiếp tục thực hiện thao tác như tiến, lui kim: xoay, vê: lay, cọ kim nhằm gây một cảm giác thảo đáng hơn. Sau đó hãy rút kim ra. Trong trường hợp đau cấp tính hoặc cơn cấp phát của một số bệnh, có thể lưu kim trong 30 phút hay thậm chí trong nhiều giờ. Cứ cách vài phút lại vê kim một lần để tăng cường kích thích. Nếu cần, có thể thao tác trong suốt...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phép châm điều trị (Kỳ 4) Phép châm điều trị (Kỳ 4) 6. Lưu kim và thao tác Thông thường, sau khi đã châm kim và gây được cảm giác châm, người tatiếp tục thực hiện thao tác như tiến, lui kim: xoay, vê: lay, cọ kim nhằm gây mộtcảm giác thảo đáng hơn. Sau đó hãy rút kim ra. Trong trường hợp đau cấp tính hoặc cơn cấp phát của một số bệnh, có thểlưu kim trong 30 phút hay thậm chí trong nhiều giờ. Cứ cách vài phút lại vê kimmột lần để tăng cường kích thích. Nếu cần, có thể thao tác trong suốt thời gianchâm, đến lúc các triệu chứng bệnh được thuyên giảm. Hiện nay “phương pháp châm nhanh” đã được áp dụng rộng rãi và khôngphải lưu kim, ưu điểm của phương pháp này là dùng ít huyệt và tiết kiệm đượcthời gian. Tuy nhiên, nó đòi hỏi châm sâu, một mũi kim xuyên thấn hai huyệt, vàgây kích thích mạnh. 7. Xử lý các tai biến trong khi châm Tai biến thường ít xảy ra, song cũng cần lưu ý đề phòng. Nó đòi hỏi thầythuốc cần có ý thức trách nhiệm cao đối với bệnh nhân. Những bệnh nhân đượcchâm lần đầu và những người dễ bị kích thích cũng như sợ châm, hoặc thể trạnghư yếu, suy nhược, thầy thuốc phải làm cho họ yên tâm bằng cách giải thích cặnkẽ cho họ hiển rõ thể thức châm cứu. Sau đây là một số tai biến hay gặp: 1- Vựng kim (choáng do châm kim) Triệu chứng: Trong khi châm kim, có thể có những triệu chứng như hoamắt, chóng mặt, cảm giác tức ngực, tim đập nhanh, nôn, da tái nhợt. Trường hợpnặng, có thể có những dấu hiệu như chân tay giá lạnh, vã mồ hôi, mạch yếu, mêman, huyết áp tụt và choáng. Nguyên nhân: Do tinh thần căng thẳng; có thể do đói, mệt, hoặc bệnh nhânquá yếu: cũng có thể có thể do thao tác quá mạnh gây kích thích thái quá… Xử lý: Rút kim ngay, đặt bệnh nhân nằm nghỉ thoải mái, đầu hơi thấp, bởivì nó có thể là do não nhất thời bị thiếu máu. Cho người bệnh uống nước nóng.Nếu đã bị hôn mê, dùng móng tay bấm vào huyệt Nhân trung, hoặc châm huyệtNhân trung và Nội quan. Nói chung, xử lý như vậy có thể giải quyết được; nhưngnếu các triệu chứng vẫn không thuyên giảm, phải dùng biện pháp cấp cứu. Cách dự phòng a- Nên đặt những bệnh nhân hư yếu hoặc tinh thần căng thẳng ở tư thế nằmtrong khi tiến hành điều trị. b- Thao tác cần khéo léo, quan sát vẻ mặt và thần sắc bệnh nhân, để pháthiện kịp thời những phản ứng bất thường và phòng ngừa biến cố. 2- Rít kim Sau khi châm, cảm thấy khó hoặc không thể vê xoay, tiến lui kim, thậm chíkhông thể rút kim ra được. Nguyên nhân: Do trạng thái thần kinh căng thẳng của bệnh nhân gây co thắtcơ; do kim vê xoay với biên độ quá lớn, hoặc do mô xơ quấn chặt quanh thân kim. Xử lý: Đối với những bệnh nhân có trạng thái thần kinh suy yếu, cần đảthông cho họ yên tâm, yêu cdầu họ thư giãn cơ, rồi xoa nắn xung quanh huyệt, sauđó có thể rút kim ra được. Nếu kim vẫn bị giữ chặt, yêu cầu bệnh nhân nghỉ ngơibình tĩnh trong giây lát, hoặc châm kim gần kề đó nhằm làm giãn cơ. Nếu kim bịmô xơ quấn chặt, nên xoay nhẹ kim theo chiều ngược lại đến khi thấy kim lỏng lẻothì rút ra. 3- Cong kim Kim bị cong lại sau khi châm qua da. Nguyên nhân: Nói chung, do bệnh nhân thay đổi tư thế trong lúc còn lưukim; một kích thích quá mạnh có thể làm cho cơ co thắt đột ngột; do một lực bênngoài nào đó chạm hay đè vào kim, hoặc châm kim quá mạnh tay. Xử lý: Nếu kim cong do bệnh nhân thay đổi tư thế, thì đưa về tư thế banđầu, rồi rút kim ra theo chiều kim cong. Tránh dùng sức để cố rút hay xoay kim,đề phòng gãy kim. 4- Gẫy kim Nguyên nhân: Có thể do kim đã bị gập hoặc bị gỉ, nhất là ở chuôi kim, hoặcdo chất liệu kim không tốt; do bệnh nhân thay đổi tư thế đột ngột; do cơ co thắtmạnh; do thao tác quá thô bạo; do kim bị đụng chạm mạnh bởi một lực bên ngoài,hoặc kim bị cong gập rồi được vuốt chữa lại. Xử lý: Trước hết, thầy thuốc cần bình tĩnh, khuyên bệnh nhân không nên cửđộng bối rối để đoạn kim gẫy không ngập sâu hơn. Nếu đầu kim gẫy ngang vẫncòn ở trên mặt da, thì dùng ngón tay hay nhíp rút ra. Nếu chỗ gẫy ngang bằng mặtda, ta ấn phần mô xung quanh huyệt châm cho đến lúc đầu gẫy trồi lên, rồi dùngnhíp rút ra. Nếu đoạn gẫy nằm trong da, hãy tìm mọi cách để lấy ra, nếu không thểđược thì phải dùng đến biện pháp phẫu thuật. Dự phòng: Trước khi tiến hành điều trị, cần kiểm tra kim cẩn thận. Phảigiải thích rõ cho bệnh nhân hiểu cần lưu kim trong quá trình điều trị. Khi thao tác,không nên quá mạnh tay, và khi lưu kim thì đoạn thân kim còn lại cần cách mặt dakhoảng 0,3 – 0,5 tấc, không được châm sát đến tận chuôi kim. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: