Danh mục

phiên dịch việt - hán, hán - việt: phần 2

Số trang: 141      Loại file: pdf      Dung lượng: 8.38 MB      Lượt xem: 39      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 9,000 VND Tải xuống file đầy đủ (141 trang) 0
Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

cuốn sách giới thiệu những vấn đề về từ ngữ, câu, phiên dịch câu một cách rõ ràng và đầy đủ nhất nhằm giúp cho người đọc dễ nắm bắt một cách trọn vẹn và mạch lạc nhất và những vấn đề cần lưu ý trong quá trình phiên dịch hán - việt. ngoài ra, cuốn sách còn bổ sung một số bài mẫu và bài tập để bạn tham khảo và nâng cao khả năng phiên dịch của mình. mời các bạn tham khảo.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
phiên dịch việt - hán, hán - việt: phần 2 Chu Húc Lương ( jạjP$Ui ) s<br /> Tam luận phiên dịch (trích)<br /> P hiên dịch cần phải có th ể tài (thể loại) tương ứng với<br /> nội dung, đây chính là cái tôi gọi là “<br /> nhã”. Bây giờ tôi sè<br /> giải thích về “<br /> tín, đạt, nhã” trong phiên dịch, “ ' chinh là<br /> tin<br /> sự trung thực đối với ý nghĩa của nguyên văn, ‘đ ạ t’ chính<br /> là người đọc có th ể hiểu được bài dịch, “<br /> nhã” chính là sự<br /> tương xứng và xác đáng giữa nội dung và thể tài cùa<br /> nguyên văn.<br /> Người ta có th ể hỏi rằn g tạ i sao tôi lại cứ thích dùng<br /> chữ “ ã ” này như thế? Nếu thay bằng một chữ “ván'<br /> nh<br /> chẳng phải là càng gần với ý tôi muốn nói hay sao? Câu<br /> trả lời của tôi là, khi dùng chữ “v ãn ” có th ể sẽ có người<br /> nhầm tưởng tôi chủ trương dùng “cổ văn” ( Ẵ « ). Từ ngữ<br /> vốn đã mơ hồ, nhưng mơ hồ cũng có chỗ hay của nó đó là<br /> dễ nhớ. Từ “ h ã ” vừa bao gồm nhã vừa bao gồm cà vản<br /> n<br /> nhã -<br /> <br /> (nho nhã), điển nhã -<br /> <br /> (trang nhả), nhã<br /> <br /> thuần - M I , chí ít nó cũng không quá thông tục va<br /> mang phong cách riêng.<br /> Vậy giữa “ ”, “ ạ t”, “ h ã ” cái nào quan trọng nhất'’<br /> tín<br /> đ<br /> n<br /> Tôi cho rằng cần phải xem xét nội dung rồi mới quvèt<br /> định. Nếu bài dịch là “Bản thảo cho độc giả” hoặc là một<br /> mẩu tin giải trí thì cần phải xem trọng đạt, lỡ như dịch sót<br /> một hai câu thì cũng không ảnh hưởng nhiều đến ý chính<br /> Nêu bài dịch là những bài triế t học, khoa học xả hội. dảc<br /> biệt là những tác phẩm kinh điển, chữ “ ” nên đật hang<br /> tín<br /> đầu. Điều người Trung Quốc không thích n h ất là cáu cú<br /> <br /> 156<br /> <br /> quá dài, chì những lúc b ất đắc dĩ mới diễn giải dài. v ề m ặt<br /> từ loại, thậm chí là kết cấu câu, chỉ cần không đến nỗi đọc<br /> lên nghe không trôi chảy thì nếu có th ể không thay đổi thì<br /> không thay đổi, cứng nhắc một chút cũng đành để chúng<br /> cứng nhắc.<br /> Và đương nhiên khi dịch tác phẩm văn học chúng ta<br /> phải chú ý gọt giũa lời văn. Nếu như là cổ văn, tuy không<br /> phải là thời Hạ Thương Chu, nhưng dịch giả không thể<br /> không thông đạt, hoặc là không ràn h rọt, tức văn ngôn lại<br /> pha tạp vào bạch thoại, th ế nhưng lại có những học giả lớn<br /> đã viết như vậy. Nếu như là bạch thoại, lại càng không<br /> ngại thoải mái hơn, không những có th ể sử đụng cổ văn<br /> một cách thích đáng mà hoàn toàn có thể sử dụng cú pháp<br /> Âu hoá. Đặc biệt là khi dịch thơ ca, vì yêu cầu cách luật<br /> hoàn chỉnh và cách gieo vần mà càng không th ể trán h<br /> được điều đó. Chúng ta hãy thử xem đoạn thơ dưới đây:<br /> Điền gian đích sồ cúc, nhĩ đích sắc thái chủng loại<br /> phồn đa,<br /> Bất chỉ vi duyệt nhân nhĩ mục nhi khai phóng,<br /> Hoàn đạo phá ngộ môn tâm trung đích nguyện vọng,<br /> Chỉ xuất nhân tâm đích xu hướng, dụng nhĩ đích tha ca;<br /> <br /> ( fflíÉ 0 M ẳ Ề S<br /> <br /> SifcÀi.'fôilSl ,<br /> <br /> ,<br /> <br /> ;)<br /> <br /> Cụm từ “ Æ f r 'f ô i # ® : ” đặt ở cuối câu chính là một<br /> <br /> dạng ngữ pháp Âu hoá, và đoạn này trích từ bài tha<br /> gồm 14 câu thơ của Balzac (<br /> <br /> ) doPỉạ<br /> <br /> Lôi ( 'í^lra ) dịch. Điều mà Phụ Lôi không thích nhất 1<br /> A<br /> dạng ngữ pháp Âu hoá, nhưng đây là dịch thơ, nên ông ấy<br /> không câu nệ điều đó.<br /> Việc lấy tiêu chuẩn “ h ã ” dùng để dịch văn học chinh là<br /> n<br /> yêu cầu dịch tác phẩm văn học cần phải có phong cách,<br /> nhưng không có nghĩa là phản án h phong cách của nguyên<br /> tác. N hà văn người Anh Alexander F raser Tytler vào<br /> những năm 90 của th ế kỷ 18 đã viết quyển sách “Nguyên<br /> lý phiên dịch”, ông đã nêu ra 3 tiêu chuẩn trong phiên<br /> dịch. Trong đó tiêu chuẩn thứ hai yêu cầu phiên dịch phải<br /> phản ánh phong cách trong nguyên văn, đây là chỗ ông<br /> khác với Nghiêm Phục ( P ấ ) . Nghiêm Phục chi nhic<br /> đến “<br /> nhã” mà không đề cập đến phong cách nguyên vản,<br /> ngày nay chúng ta nói dịch tác phẩm văn học phài có<br /> phong cách, và không nên yêu cầu dịch cả phong cách của<br /> nguyên văn vì phong cách của nguyên văn thì không có<br /> cách nào có thể dịch được.<br /> Nói tóm lại, phong cách của một tác phẩm ván học do<br /> bốn phương diện sau quyết định nên: Thứ n h ất là phong<br /> cách của nguyên tác, ví dụ nguyên văn của”Kinh thánh cựu<br /> ước” c IB<br /> vốn là tiếng Hy Lạp cổ, tính từ rát ít,<br /> phó từ hoàn toàn không có, nên bản dịch tấ t nhiên khóng<br /> thể thêm chúng vào. Bài văn “Những cuộc phiêu lưu cua<br /> Gulliver”<br /> ( I M<br /> <br /> 158<br /> <br /> của tác giả<br /> * #<br /> <br /> Stromile Swift<br /> <br /> ) người Anh, tuyệt nhiên không dùng cách<br /> <br /> ví von, những dịch giả khi nắm rõ đặc điểm nhỏ này cần<br /> phải chú ý, khi dịch không nên tuỳ tiện dùng những từ ngữ<br /> mang ý ẩn dụ. Nhưng tác giả của “La Mã suy vong<br /> sử” (<br /> ) là Edward Gibbon ( c i BE ) ở<br /> cuối mỗi đoạn văn ông thường thích dùng cụm từ ngắn như “ f<br /> o<br /> a nation”, “ f ivar” để k ết thúc, điều này cũng tạo thành<br /> o<br /> một phần trong phong cách văn chương của ông, nhưng<br /& ...

Tài liệu được xem nhiều: