Thông tin tài liệu:
1/ PHẢI CHĂNG LÓC ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ LÀ CÙNG MỘT BỆNH ?Không. Các quá trình xảy ra trong hai bệnh khác nhau. Lóc động mạch chủ (aortic dissection) theo định nghĩa chỉ sự phân tách của nội mạc (intima) với sự tạo thành phình mạch giả (pseudoaneurysm). Một phình động mạch thật sự là sự giãn của tất cả các lớp của thành động mạch.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PHÌNH VÀ LÓC ĐỘNG MẠCH CHỦ (AORTIC ANEURYSMS AND AORTIC DISSECTION) PHÌNH VÀ LÓC ĐỘNG MẠCH CHỦ(AORTIC ANEURYSMS AND AORTIC DISSECTION)1/ PHẢI CHĂNG LÓC ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ PHÌNH ĐỘNGMẠCH CHỦ LÀ CÙNG MỘT BỆNH ?Không. Các quá trình xảy ra trong hai bệnh khác nhau. Lóc động mạchchủ (aortic dissection) theo định nghĩa chỉ sự phân tách của nội mạc(intima) với sự tạo thành phình mạch giả (pseudoaneurysm). Một phìnhđộng mạch thật sự là sự giãn của tất cả các lớp của thành động mạch.2/ NH ỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI PHÌNH ĐỘNG MẠCHCHỦ (AORTIC ANEURYSM) ?Cao huyết áp là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với sự phát triển củalóc động mạch chủ (aortic dissection). Xơ vữa động mạch, bệnh đáiđường, tăng lipit-huyết, hút thuốc, cao huyết áp, tố bẩm di truyền, và, mớiđây hơn, các khuyết tật bẩm sinh, là những yếu tố tố bẩm (predisposingfactors) quan trọng. Những nguyên nhân hiếm hoi khác là bệnh giangmai, những nhiễm trùng khác, và viêm động mạch chủ (aortitis). Đàn ôngcó khả năng phát triển một phình động mạch 10 lần nhiều hơn đàn bà.3/ MÔ TẢ BỆNH NHÂN ĐIỂN HÌNH VỚI MỘT PHÌNH Đ ỘNGMẠCH CHỦ BỤNG (ABDOMINAL AORTIC ANEURYSM).Một người già vốn đ ã có những biểu hiện của xơ vữa động mạch(atherosclerosis), như b ệnh động mạch vành (coronary artery disease) haybệnh huyết quản ngoại biên (peripheral vascular disease).4/ NH ỮNG TRIỆU CHỨNG VÀ DẤU HIỆU CỦA PHÌNH ĐỘNGMẠCH CHỦ BỤNG ?Các phình động mạch chủ bụng thường được tìm thấy một cách tình cờlúc thăm khám vật lý thông thường hay qua những thăm dò X quang vìnhững lý do khác.Triệu chứng thông thường nhất với một phình độngmạch đang lớn ra một cách cấp tính hay rò (an acute expanding or leakinganeurysm) là đau bụng thường xuyên, thường định vị mạng sườn trái hayhố chậu trái với lan tỏa ra sau lưng. Tùy thuộc vào mức độ mất máu, bệnhnhân có thể có những dấu hiệu thay đổi hay giảm thể tích máu(hypovolemia), như hạ huyết áp, ngất xỉu, hay giảm hematocrit.5/ NH ỮNG THĂM KHÁM NÀO NÊN ĐƯ ỢC THỰC HIỆN NẾUNGHI PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG ?Không có thăm dò nào nên được thực hiện thêm nữa nơi một bệnh nhânkhông ổn định, có b ệnh cảnh lâm sàng của một phình động mạch rò (aleaking aneurysm) nếu sự thực hiện thăm dò này làm trì hoãn can thiệpphẫu thuật. Nếu bệnh nhân ổn định huyết động, thăm dò tốt nhất là siêuâm, có thể được thực hiện nhanh chóng ở phòng cấp cứu, là nơi sự giámsát thường xuyên bệnh nhân có thể được thực hiện. Nếu động mạch chủbình thường, những tình trạng tiềm tàng khác có thể được đánh giá, nhưcơn đau quặn gan (biliary colic), sỏi thận, hay viêm tụy tạng. Nhữngkhuyết điểm của siêu âm bao gồm khả năng động mạch chủ bị che lấp bởikhí ruột và không cho thấy sự tràn dịch ra ngoài (extravasion). CT scancũng là một cách rất tốt cho thấy động mạch chủ bụng và sự hiện diện củamáu trong khoang hậu phúc mạc hay trong xoang phúc mạc. Tuy nhiênsự thực hiện CT làm mất thời gian và đòi hỏi phải xê dịch bệnh nhân từphòng cấp cứu. Chụp mạch máu (angiography), được nhiều người xem làtiêu chuẩn vàng đ ể đánh giá động mạch chủ, cho một sự đánh giá cơ thểhọc rất tốt của động mạch chủ và các nhánh của nó nhưng là thủ thuậtxâm nhập và mất thời gian.6/ NH ỮNG LÝ DO THÔNG THƯỜNG KHIẾN BỎ SÓT CHẨNĐOÁN PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ (AORTIC ANEURYSM) HAYLÓC ĐỘNG MẠCH CHỦ (AORTIC DISSECTION) ?Mặc dầu thăm khám vật lý là cách tốt nhất để nhận diện một phình độngmạch chủ bụng (có thể ấn chẩn trong 80% đến 90%), nhưng có thể khókhăn nơi các bệnh nhân béo phì. Những chẩn đoán thông thường hơn vàhiền tính có thể giống với phình động mạch chủ là viêm tụy tạng, cơn đauquặn thận, bệnh đường mật, và đau lưng nguồn gốc cơ-xương(musculoskeletal back pain). Những phình động mạch có thể có biểu hiệukhông điển hình dưới dạng xuất huyết dạ dày-ruột do một nơi rò giữađộng mạch chủ và ruột non. Bệnh cảnh này thường xảy ra nơi nhữngbệnh nhân trước đây đã được mổ động mạch chủ. Một phình động mạchlớn có thể gây nên những triệu chứng không thông thường liên quan vớitác dụng của khối u, như tắc ruột hay niệu quản. Đau rễ thần kinh(radicular pain) có thể xảy ra nếu xuất huyết hậu phúc mạc gây nên bệnhdây thần kinh đùi hay dây thần kinh tọa (femoral hay sciatic neuropathy).Sự gây nghẽn mạch ngoại biên từ mãng xơ mỡ thành động mạch(peripheral embolization of mural plaque) có thể gây nên thiếu máu cụcbộ ngoại biên như là triệu chứng khởi đầu. Các bệnh nhân có thể nhữngcơn đau xảy ra từng đợt, gây nên bởi hoặc là lóc hay do sự lớn ra(expansion) của phình động mạch. Nếu bệnh nhân đang trong thời kỳkhông đau, thì tình trạng bệnh có thể bị bỏ sót do dạng vẻ hiện tính củabệnh nhân. Một đợt đau đột ngột nghiêm trọng không do chấn thương ởbụng, ngực, lưng nên được xem là một triệu chứng đáng lo ngại.7/ LIỆT K Ê NH ỮNG SAI LẦM THÔNG THƯỜNG NHẤT TRONGVIỆC XỬ TRÍ VỠ PH ÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ Ở PHÒNG CẤPCỨU. Quy các triệu chứng của bệnh nhân cho một tình trạng bệnh hiền ...