Thông tin tài liệu:
Phố cổ Hà Nội nổi tiếng với những ngôi nhà chồng diêm, nhà hình ống, những mái ngói cong, lô xô mềm mại tạo ra nét duyên dáng riêng làm cho Hà Nội có nét đẹp riêng không hề giống với các thành phố khác trên thế giới. Phố Hàng Bạc là một trong những con phố cổ ở Hà Nội - một di sản của Hà Nội mà chúng ta cần gìn giữ.Theo nghiên cứu của các chuyên gia Sử học thì trong các sách chính sử đều không thấy chép niên đại cụ thể sự ra đời của...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phố Hàng Bạc - Một trong những di sản phố cổ ở Hà Nội Phố Hàng Bạc - Mộttrong những di sản phố cổ ở Hà NộiPhố cổ Hà Nội nổi tiếng với những ngôi nhà chồng diêm, nhàhình ống, những mái ngói cong, lô xô mềm mại tạo ra nétduyên dáng riêng làm cho Hà Nội có nét đẹp riêng không hềgiống với các thành phố khác trên thế giới. Phố Hàng Bạc làmột trong những con phố cổ ở Hà Nội - một di sản của HàNội mà chúng ta cần gìn giữ.Theo nghiên cứu của các chuyên gia Sử học thì trong cácsách chính sử đều không thấy chép niên đại cụ thể sự ra đờicủa phố Hàng Bạc, nhưng căn cứ theo nội dung của tấm biađặt tại đình Dũng Hãn (42 Hàng Bạc) có thể xác định đượcphố Hàng Bạc ra đời vào thời Lê hoặc có thể sớm hơn mộtchút.Vào thời Lê, phố Hàng Bạc thuộc về phường Đông Các,huyện Thọ Xương. thời Nguyễn, phố Hàng Bạc thuộc thônDũng Thọ, tổng Hữu Túc sau đổi thành tổng Đông Thọ,huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức. Ngày nay phố Hàng Bạcdài 280m, đi từ phố Hàng Mắm đến ngã tư tiếp giáp vớiHàng Đào (trước kia là phố chuyên nghề nhuộm chuội và bántơ lụa), Hàng Ngang (nơi sinh sống và buôn bán của các Hoakiều gốc Quảng Đông) và phố Hàng Bồ (nơi tập trung buônbán các thứ bồ đan bằng tre, nứa), thuộc phường Hàng Bạc,quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Dưới thời Pháp, phố có tên là Ruedes Changeurs tức là Phố của những người đổi tiền.Tại phố Hàng Bạc, ngoài những người dân gốc, vốn đã từngsinh sống từ trước còn có cư dân của ba làng khác di cư đến.Đó là dân của các làng Châu Khê (Hưng Yên), Định CôngThượng (Thanh Trì, Hà Nội) và làng Đồng Sâm nổi tiếng vớinghề chạm bạc, người Định Công chuyên về đồ đậu, cònngười Châu Khê lại làm nghề đúc bạc đổi tiền.Để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày cho vua quan, Nhosỹ và để xây dựng nhà cửa, cung điện, những thương nhân,thợ thủ công... từ các địa phương đến kinh thành ngày mộtnhiều. Phương thức di dân phổ biến là cả một tập thể thônxóm theo những người họ hàng thuộc các vị tổ nghề cùngnhau lên kinh đô, rồi lại cùng nhau sống quây quần tại mộtđịa điểm, một phường nhất định. Hình thức di cư này tạo nêncác phường chuyên nghề và chuyên mặt hàng của đất Kinhkỳ Thăng Long 36 phố phường. Mỗi phường sản xuất và bàybán một loại hàng cố định. Đây chính là nét độc đáo của khuphố cổ Hà Nội.Những người dân sống ở khu phố cổ Hà Nội vẫn luôn có sựliên hệ với các làng quê gốc của mình. Họ vẫn có nhà vàruộng đất ở quê, và họ vẫn trở về quê vào các dịp lễ Tết vừađể hưởng quyền lợi, vừa thực thi nghĩa vụ với làng. Họ luôngắn bó với nhau hướng về làng quê gốc trong việc xây dựngđền thờ vọng thành hoàng làng mình. Như vậy, những ngườidân sống ở khu phố cổ Hà Nội tồn tại trong nhiều mối quanhệ, vừa là thành viên của thôn, phường sở tại, vừa là thànhviên của làng quê gốc.Khi lên phố Hàng Bạc sinh sống, những người dân làng ChâuKhê đã dựng 2 ngôi đình. Đó là đình Trương Thị ở số nhà 50và đình Kim Ngân ở số nhà 42. Đến cuối thế kỷ XIX, khi dânlàng Châu Khê lên lập nghiệp ngày càng đông, 2 ngôi đìnhkhông đủ chỗ cho dân làng hội họp và tế lễ họ đã mua NộiMiếu ở thôn Hài Tượng (nay ở số 30 phố Hàng Giầy) để làmđền thờ vọng về quê, gọi là Châu Khê vọng sợ. Hàng năm cứđến ngày 19 tháng Giêng, những người dân Châu Khê phốHàng Bạc lại trở về làng Châu Khê, Hưng Yên để dự hội quêmình.