Danh mục

Phương pháp chẩn đoán và điều trị các bệnh da liễu thường gặp: Phần 2

Số trang: 176      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.91 MB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 10 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ở phần 2 cuốn sách "Phương pháp chẩn đoán và điều trị các bệnh da liễu thường gặp" sẽ tiếp tục trình bày 5 chương còn lại của cuốn sách. Cung cấp cho bạn đọc kiến thức bổ ích về các bệnh da đỏ da có vảy, bệnh lây truyền qua đường tình dục, bệnh u da, các bệnh da di truyền,... Mời các bạn tiếp tục tham khảo phần còn lại của cuốn sách để không bỏ lỡ những kiến thức bổ ích nhé.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Phương pháp chẩn đoán và điều trị các bệnh da liễu thường gặp: Phần 2 CHƯƠNG 6. BỆNH ĐỎ DA CÓ VẢY VIÊM DA DẦU (Seborrheic Dermatitis) 1. ĐẠI CƢƠNG - Viêm da dầu là một bệnh da mạn tính. Thƣơng tổn cơ bản là dát đỏ, giới hạn rõ, trên có vảy mỡ, khu trú ở vùng có nhiều tuyến bã nhƣ da đầu, mặt và phần trên của thân mình. - Ở Mỹ, khoảng 1 đến 3 % dân số mắc bệnh, nam nhiều hơn nữ, chủ yếu gặp ở ngƣời trẻ từ 18 đến 40 tuổi, ít gặp ở ngƣời cao tuổi. Ở trẻ sơ sinh, tuyến bã tăng hoạt động trong thời kỳ này do tác dụng của androgen từ mẹ truyền qua rau thai nên nhiều trẻ em mắc bệnh trong thời kỳ sơ sinh. - Viêm da dầu cũng hay gặp ở những ngƣời bệnh Parkinson và ngƣời bệnh nhiễm HIV. 2. NGUYÊN NHÂN Nguyên nhân gây bệnh hƣa rõ ràng. Tăng tiết chất bã/dầu là điều kiện gây viêm da dầu. Nấm Malassezia ovale (Malassezia furfur), vi khuẩn P. acne và một số vi khuẩn khác đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của bệnh. Ở ngƣời bệnh bị gầu da đầu, nồng độ kháng thể kháng lại Malassezia cao hơn so với nhóm chứng. Ngƣời bệnh bị viêm da dầu có đáp ứng miễn dịch với M. orbicular. 3. CHẨN ĐOÁN a) Chẩn đoán xác định - Lâm sàng + Tổn thƣơng là các dát đỏ thẫm, trên có vảy da khô ở vùng da có nhiều tuyến bã nhƣ da đầu, mặt, trƣớc xƣơng ức, vùng giữa hai bả vai và các nếp gấp. + Gầu da đầu là biểu hiện đầu tiên của viêm da dầu, da đầu có thể bình thƣờng, ở giai đoạn muộn hơn, da đầu trở nên đỏ ở nang lông lan rộng, liên kết với nhau và có thể lan xuống trán, sau tai, ống tai ngoài và cổ. + Ở mặt: dát đỏ và vảy da, thƣờng ở vùng giữa hai lông mày, rãnh mũi má. + Ở thân mình: ban đầu là sẩn đỏ ở nang lông trên có vảy mỡ, sau đó các sẩn liên kết với nhau tạo thành mảng lớn, có nhiều cung nhƣ hình cánh hoa, ở giữa có vảy mỏng, xung quanh là các sẩn màu đỏ thẫm trên có vảy mỡ ở trƣớc ngực, vùng liên bả vai. 154 + Ở các nếp gấp nhƣ nách, bẹn, nếp dƣới vú, hậu môn sinh dục, viêm da dầu biểu hiện nhƣ viêm kẽ, da đỏ, giới hạn rõ, trên có vảy mỡ. - Xét nghiệm cận lâm sàng + Mô bệnh học: không đặc hiệu, có hiện tƣợng á sừng, tăng lớp tế bào gai và xốp bào nhẹ. Xốp bào là dấu hiệu quan trọng giúp chẩn đoán phân biệt với vảy nến. Trung bì có hiện tƣợng thâm nhiễm nhẹ các tế bào viêm. + Soi nấm trực tiếp phát hiện M. furfur. + Ngƣời bệnh viêm da dầu cần làm xét nghiệm HIV. b) Chẩn đoán phân biệt - Vảy nến: các dát đỏ ở vùng tỳ đè, giới hạn rõ trên có vảy khô dày. Việc chẩn đoán phân biệt cần dựa vào mô bệnh học. - Biến chứng của chấy đôi khi cũng rất khó phân biệt với viêm da dầu. - Viêm da do ánh nắng, lupus đỏ hệ thống đôi khi cũng cần phân biệt với viêm da dầu. 4. ĐIỀU TRỊ a) Nguyên tắc chung - Dùng thuốc kháng nấm tại chỗ có tác dụng đối với Pityrosporum. - Bệnh dễ tái phát. Các yếu tố làm vƣợng bệnh nhƣ stress, nghiện rƣợu, hoặc một số thuốc. - Không nên dùng các thuốc bôi corticoid. b) Điều trị cụ thể - Đối với gầu da đầu: thƣờng xuyên gội đầu bằng dầu gội chống nấm. Nƣớc gội đầu có pyrithion, kẽm và magne với nồng độ 0,5 đến 2% hoặc dầu gội đầu olamin 0,75-1% trong thời gian nhiều tháng. Có thể dùng dầu gội đầu chứa selenium 1-2,5% hoặc chứa hoạt chất chống nấm thuộc nhóm imidazol nhƣ ketoconazol, econazol hay bifonazol. - Đối với thƣơng tổn trên mặt, nên dùng các loại xà phòng ZnP 2% và các thuốc chống nấm imidazol nhƣ ketoconazol, bifonazol hay ciclopiroxolamin. - Isotretinoin có tác dụng làm giảm sự bài tiết chất bã. Liều lƣợng 0,5mg/kg/ngày trong ít nhất 8 tháng. Theo dõi chức năng gan, mỡ máu trong quá trình điều trị. - Viêm da dầu ở trẻ sơ sinh và dạng đỏ da toàn thân (Leiner-Moussous diseases) có thể tự khỏi khi trẻ đƣợc 3 đến 4 tuổi. Cần điều trị dự phòng các biến chứng bội nhiễm. Có thể dùng xà phòng chống nấm (chlorhexidin, trichorcarbanid), 155 sau đó dùng các dẫn chất của imidazol. Nếu có nhiều vảy dày trên da đầu cần làm mềm vảy bằng xà phòng hay mỡ salicylic 5% hoặc mỡ kháng sinh. Không nên dùng các thuốc corticoid bôi. Trong trƣờng hợp tổn thƣơng lan toả có thể sử dụng ketoconazol đƣờng uống. 5. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG - Bệnh tiến triển mạn tính và dễ tái phát thành từng đợt, vƣợng lên khi ngƣời bệnh căng thẳng hay bị stress. Viêm da dầu có thể tiến triển thành đỏ da toàn thân. - Nếu kết hợp với các bệnh da khác nhƣ viêm da cơ địa hay vảy nến sẽ gây khó khăn khi chẩn đoán vì cả hai bệnh đôi khi có hình ảnh lâm sàng và giải phẫu bệnh tƣơng tự nhau. 156 VẢY PHẤN HỒNG GIBERT (Pityriasis rosea of Gibert) 1. ĐẠI CƢƠNG - Vảy phấn hồng Gibert là một bệnh da cấp tính, lành tính, có thể tự khỏi. Bệnh đƣợc Gibert mô tả năm 1860. - Bệ ...

Tài liệu được xem nhiều: