Danh mục

Principles of international commercial contracts - Những nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế: Phần 2

Số trang: 55      Loại file: pdf      Dung lượng: 1.71 MB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (55 trang) 0
Xem trước 6 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế của UNIDROIT được soạn thảo với một sự linh động vừa đủ để thích ứng với những đổi thay với tập quán giao dịch thương mại giữa các quốc gia từ sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ và kinh tế, bằng cách quy định rõ những nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, theo nguyên tắc thiện chí và trung thực và theo những tiêu chuẩn cư xử đúng mực. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung phần 5 Tài liệu để cùng tìm hiểu thêm về ván đề này.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Principles of international commercial contracts - Những nguyên tắc Hợp đồng Thương mại Quốc tế: Phần 2 Điều 5.7 (Xác định giá trị hợp đồng) 1. Khi hợp đồng không xác định giá trị công việc, các bên trong hợp đồng được quyền xác định giá trị công việc thực hiện bằng cách so sánh các trường hợp tương tự của ngành hàng mà các bên tham gia, nếu giá trị này không thể xác định được thì xác định một giá trị vừa phải. 2. Nếu một bên trong hợp đồng được quyền xác định giá trị, mà giá trị được xác định là phi lí, thì một giá trị hợp lý sẽ được các bên thoả thuận lại, kể cả khi trong hợp đồng có quy định khác. 3. Nếu giá trị hợp đồng do bên thứ ba xác định, và bên thứ ba này không thể hay không muốn xác định, thì giá trị vừa phải sẽ được dùng làm căn cứ xác định. 4. Nếu giá trị hợp đồng được xác định bằng cách tham khảo các nhân tố, mà các nhân tố này không tồn tại, chấm dứt tồn tại hay không thể xác định được, thì nhân tố tương đương gần nhất sẽ được dùng thay thế để xác định. BÌNH LUẬN Một hợp đồng thường phải định giá phải trả, hoặc đặt ra điều khoản cho việc xác định giá. Tuy nhiên, nếu điều này không được đặt ra, Khoản (1) của Điều 5.7 giả định rằng để xác định giá trị, các bên đã thực hiện việc tham khảo giá cả cho công việc thực hiện nói chung vào thời điểm giao kết hợp đồng, cũng như đã so sánh các hoàn cảnh trong cùng ngành kinh doanh có liên quan. Việc xác lập các yếu tố này dĩ hiên là có ý nghĩa. Tuy nhiên, Điều 5.7 cũng cho phép bác bỏ giả định trên, nếu như có bất kỳ sự kiện nào thể hiện các đi hay các bên có thoả thuận khác. Điều 5.7 tương tự với Điều 55 CISG. Qui định này nhằm tạo một sự linh động cần thiết để đáp ứng các yêu cầu của thương mại quốc tế. Thật ra trong một số trường hợp, giá cả trên thị trường có thể không tương xứng trong việc kiểm tra tính hợp lý của giá cả được quy định trong hợp đồng. Vì vậy, khi đó có thể dựa trên nguyên tắc chung về thiện chí và trung thực (Điều 1.7), hoặc có thể liên hệ đến một số điều khoản qui định về hiệu lực của hợp đồng khi có nhầm lẫn, lừa dối hoặc có bất bình đẳng (Chương 3). Một số hợp đồng quốc tế liên quan đến các hoạt động đặc thù, đến nỗi không thể tham chiếu giá được tính cho việc thực hiện tương tự trong các hoàn cảnh tương tự. Theo Khoản (1), các bên cần thấy rằng sau khi thực hiện tham khảo một số giá cả, sẽ phải định giá ở một mức hợp lý, tuỳ thuộc vào sự xem xét và chấp nhận của toà án hay trọng tài. Ví dụ 1. A - một Công ty chuyên về chuyển phát nhanh trên khắp thế giới, nhận của B một bưu kiện phải được giao ngay từ Pháp đến Mỹ trong một thời hạn sớm nhất có thể được. Vấn đề giá cả không được nói đến. A sẽ tính tiền B bằng giá thường tính trong phạm vi dịch vụ này. 2. Một đặt hàng tiếp theo mà A nhận từ B là giao một bưu kiện khác ngay trong thời hạn sớm nhất có thể được đến Nam Cực, nơi mà một đoàn thám hiểm đang rất cần việc cung cấp này. Một lần nữa, giá cả không được nói đến, nhưng vì không thể làm một sự so sánh nào về thị trường có thể được chấp nhận nào nên A phải hành động một cách hợp lý khi định giá. 2. Giá do một bên xác định Trong một số trường hợp, hợp đồng cung cấp qui định rằng giá phải do một bên xác định. Việc này thường xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ví dụ như việc cung cấp các dịch vụ. Nếu giá cả không thể dễ dàng xác định trước được, thì bên thực hiện thường ở trong một vị thế tốt nhất để đánh giá những gì mình đã thực hiện. Qui tắc này mang tính hướng dẫn. Tuy nhiên, để tránh việc lạm dụng, Khoản (2) của Điều 5.7 cho phép các thẩm phán hoặc các trọng tài thay thế một giá bất hợp ký rõ rệt trong hợp đồng bằng một giá hợp lý. Qui đinh này mang tính bắt buộc. 3. Xác định giá nhờ bên thứ ba Một điều khoản về việc giá cả sẽ được bên thứ ba xác định có thể dẫn đến khó khăn nghiêm trọng, nếu như bên thứ ba không thể thực hiện được việc này (khi họ không phải là chuyên gia về việc này) hoặc từ chối xác định giá. Khoản (3) qui định rằng trong những trường hợp đó giá có thể do các thẩm phán hoặc các trọng tài viên xác định. Nếu bên thứ ba xác định giá trong hoàn có nhầm lẫn, có bất bình đẳng, hoặc đe doạ, thì ta có thể áp dụng Điều 3.11(2) để vô hiệu hợp đồng. 4. Xác định giá thông qua việc tham khảo các nhân tố bên ngoài Trong một số trường hợp, giá cả được xác định bằng cách tham khảo các yếu tố bên ngoài, điển hình là một số chỉ số được phát hành, hoặc các bản chào giá trên thị trường hàng hoá. Khi các yếu tố tham khảo không còn tồn tại hay không thể có được, Khoản (4) qui định rằng các yếu tố tương đương gần nhất sẽ được xem như là yếu tố thay thế để định giá. Ví dụ 3. Giá thành của một hợp đồng xây dựng có liên quan đến nhiều chỉ số bao gồm 'chỉ số chính thức về những chi phí trong lĩnh vực xây dựng', do chính quyền địa phương phát hành thường kỳ. Nhiều yếu tố cấu thành giá hãy còn được tính toán, khi chỉ số chính thức này bị ngưng phát hành. Tuy nhiên, khi liên đoàn xây dựng hay một hiệp hội thương mại tư nhân quyết định bắt đầu công bố một chỉ số tương tự để thay thế cho chỉ số chính thức trên, thì khi này chỉ số mới được xem như là chỉ số thay thế. Điều 5.8 (Hợp đồng vô thời hạn) Một hợp đồng vô thời hạn có thể bị chấm dứt bởi bất kỳ bên nào, bằng cách thông báo cho bên kia trong một thời hạn hợp lý. BÌNH LUẬN Thời gian của hợp đồng thường được quy định rõ ràng bằng một điều khoản, hoặc nó có thể được xác định từ bản chất và mục đích hợp đồng (ví dụ hợp đồng cung cấp đào tạo chuyên môn về kỹ thuật để hỗ trợ cho việc thực hiện các công việc chuyên môn thường kết thúc khi công việc đó kết thúc). Tuy nhiên, có những trường hợp khi thời hạn này không được xác định mà cũng không thể xác định, các bên cũng có thể quy định rằng hợp đồng được hoàn thành trong một thời hạn chưa xác định. Điều 5.8 qui định rằng, trong các trường hợp như thế, một bên có thể chấm dứt mối quan hệ hợp đồng, bằng cách đưa ra thông b ...

Tài liệu được xem nhiều: