Thông tin tài liệu:
Ở người già : Lượng Propofol dùng để gây mê giảm dần theo tuổi của người bệnh, sự giảm liều này không tùy thuộc vào dược động học hay sự nhạy cảm của tế bào não được kiểm chứng bằng điện não đồ. Khi tiêm tĩnh mạch, Propofol đạt đến nồng độ cao trong máu nhanh hơn ở người già, điều này giải thích tính chất dược lực học của thuốc và cần giảm liều lượng thuốc. Nồng độ thuốc trong máu cao gây rối loạn hô hấp - tuần hoàn như : tụt huyết áp, ngưng thở, tắc...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
PROPOFOL ABBOTT (Kỳ 2)
PROPOFOL ABBOTT
(Kỳ 2)
Ở người già :
Lượng Propofol dùng để gây mê giảm dần theo tuổi của người bệnh, sự
giảm liều này không tùy thuộc vào dược động học hay sự nhạy cảm của tế bào não
được kiểm chứng bằng điện não đồ. Khi tiêm tĩnh mạch, Propofol đạt đến nồng độ
cao trong máu nhanh hơn ở người già, điều này giải thích tính chất dược lực học
của thuốc và cần giảm liều lượng thuốc. Nồng độ thuốc trong máu cao gây rối loạn
hô hấp - tuần hoàn như : tụt huyết áp, ngưng thở, tắc đường thở gây thiếu dưỡng
khí. Nồng độ thuốc trong máu cao phản ánh sự giảm thể tích phân phối và độ
thanh thải của thuốc ở người già giữa các khoang của cơ thể ; vì vậy được khuyến
cáo dùng liều thấp trong khởi mê hay duy trì mê ở người già (xem phần Liều
lượng và Cách dùng).
Ở trẻ em :
Dược động học của Propofol ở trẻ từ 3 đến 12 tuổi đã được mô tả rõ ràng
như kiểu ba ngăn của cơ thể. Một nghiên cứu ở trẻ em phải mổ khoảng 1 tới 2 giờ
và mẫu máu được lấy trong vòng 8 giờ sau đó cho thấy nửa thời gian thải trừ từ
250-400 phút ; thể tích phân phối tới 10 l/kg và độ thanh thải vào khoảng 35
ml/kg/phút. Sự ước tính này cho thấy tính tan trong mỡ và độ thanh thải cao của
Propofol. Những sự khác nhau về thời gian thải trừ và thể tích phân phối ở người
bệnh trưởng thành và trẻ em cho thấy thuốc tác dụng kéo dài hơn ở người lớn. Độ
thanh thải ở trẻ em cao hơn 50% so với người lớn.
Suy nhược cơ quan :
Dược động học của Propofol không thay đổi ở những người xơ gan hay suy
thận mãn tính. Dược động học của Propofol trên người bệnh suy gan, suy thận cấp
tính chưa được nghiên cứu.
CHỈ ĐỊNH
Propofol là thuốc mê tĩnh mạch có thể dùng để khởi mê hay duy trì mê
trong phương pháp gây mê cân bằng cho người bệnh mổ chương trình hay ngoại
trú, người lớn và trẻ em lớn hơn 3 tuổi.
Propofol chỉ được dùng để đặt nội khí quản cho người bệnh trưởng thành
thở máy ở săn sóc đặc biệt mục đích an thần hay ngăn chận những xung kích ;
trong những trường hợp này, chỉ được những chuyên viên có khả năng và kinh
nghiệm về hồi sức hô hấp tuần hoàn đối với những người bệnh nặng.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Propofol không được dùng cho những người có tiền căn dị ứng với nó hoặc
dị ứng với các chất chứa trong dung dịch thuốc hoặc người bệnh có chống chỉ định
về an thần, gây mê toàn diện.
Propofol cũng không được dùng cho trẻ em dưới 3 tuổi, phụ nữ có thai, gây
mê sản khoa và dùng gây an thần cho những trẻ em dưới 16 tuổi (xem phần Chú ý
đề phòng).
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG
Propofol có thể gây ra những rung cơ, co giật ; những dạng phản ứng quá
mẫn như nổi mẩn đỏ, co thắt khí phế quản cũng có thể xảy ra.
Sự ngưng thở thường xảy ra khi tiêm khởi mê có thể kéo dài quá 60 giây
cần hô hấp hỗ trợ.
Đã có một vài báo cáo về tình trạng phù phổi cấp hay ngưng tim khi dùng
Propofol, nhưng nguyên nhân chưa được xác định.
Không nên dùng Propofol cho những người bệnh động kinh vì có thể gây
cơn khi tỉnh dậy.
Propofol không có tính ly giải đối giao cảm nên có thể gây chậm nhịp tim
từ trung bình cho tới nặng. Những trường hợp nhịp tim chậm hay dùng những
dược chất gây chậm nhịp tim nên dùng chất chống cholinergic trước hay trong khi
duy trì mê với Propofol. Người bệnh phải được theo dõi cẩn thận để phát hiện tụt
huyết áp hay nhịp tim chậm. Propofol không nên sử dụng cho những trường hợp
điều trị bằng điện.
An thần trong săn sóc đặc biệt (xem phần Chú ý, Liều lượng và Cách
dùng).
Propofol được bắt đầu dùng với liều nhỏ và thay đổi chậm (ít nhất là 5 phút
mới tăng liều) để hạn chế tụt huyết áp và tránh quá liều. Cũng như những thuốc an
thần khác, Propofol thay đổi theo từng người bệnh và từng thời gian.
Cần theo dõi sát người bệnh để phát hiện sớm những biến đổi về tim mạch
như tụt huyết áp trầm trọng, có thể cải thiện nếu ngưng thuốc, truyền dịch hay
dùng thuốc vận mạch.
Nếu ngưng Propofol đột ngột, người bệnh sẽ tỉnh nhanh kết hợp với sự lo
âu, vật vã chống thở máy và sự cai thở máy sẽ gặp khó khăn vì vậy người ta
khuyên nên duy trì một lượng Propofol đủ để duy trì một độ mê nhẹ trong suốt
thời gian cai thở máy cho tới khi từ 10 tới 15 phút trước khi rút ống nội khí quản.
Bởi vì Propofol được pha trong nhũ tương nên nếu truyền nhiều, lâu sẽ gây
tăng lượng triglycerides ; người bệnh có nguy cơ tăng lipide máu cần theo dõi tình
trạng này. Khi dùng Propofol cần chú ý đến lượng mỡ có trong dung dịch ; 1 ml
Propofol chứa khoảng 0,1 g mỡ.
Thông báo cho người bệnh :
Người bệnh cần được khuyến cáo về những hoạt động cần sự điều khiển
của trí tuệ như điều khiển máy móc, xe cộ... có thể thay đổi sau khi gây mê một
thời gian ngắn với Propofol. Nên tránh uống rượu.
...