Danh mục

Quan hệ kinh tế trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XIX

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 88.40 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Bên cạnh mối bang giao chính trị hòa hiếu, chúng ta còn được chứng kiến những bước phát triển đáng ghi nhận trong mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước Việt – Trung xuyên suốt giai đoạn này. Trong số đó, quan hệ buôn bán trên biển luôn được xem là buôn bán chính ngạch và đóng vai trò quan trọng hơn cả.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan hệ kinh tế trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XIX JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2012, Vol. 57, No. 2, pp. 78-82 QUAN HỆ KINH TẾ TRÊN BIỂN GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Nguyễn Thị Mỹ Hạnh Trường Đại học Sư phạm Hà Nội E-mail: myhanhvnh@gmail.com Tóm tắt. Giai đoạn từ năm 1802 (năm triều Nguyễn chính thức thành lập) đến năm 1858 (năm thực dân Pháp nổ sung xâm lược Việt Nam) là giai đoạn mà mối quan hệ Việt – Trung nằm trong số những thời kì “hòa bình”, “bang giao hảo thoại” và đặc biệt mối quan hệ ấy chưa chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố thứ 3: thực dân Pháp như giai đoạn về sau. Do vậy, bên cạnh mối bang giao chính trị hòa hiếu, chúng ta còn được chứng kiến những bước phát triển đáng ghi nhận trong mối quan hệ kinh tế giữa 2 nước Việt – Trung xuyên suốt giai đoạn này. Trong số đó, quan hệ buôn bán trên biển luôn được xem là buôn bán chính ngạch và đóng vai trò quan trọng hơn cả. Từ khóa: Quan hệ kinh tế, biển, Việt Nam, Trung Quốc, đầu thế kỉ XIX.1. Mở đầu Chúng ta biết: Việt Nam có lịch sử Nam tiến. Đó là điều không ai phủ nhận được.Mỗi giai đoạn Nam tiến đều tạo ra những bước đi mới của lịch sử dân tộc trên mọi phươngdiện. Nếu như trước thời Nguyễn, đặc biệt từ trước thế kỷ XVII, trung tâm chính trị, kinhtế của đất nước ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thì đến thời Nguyễn, trung tâm chính trị vàkinh tế của đất nước lại chính ở Trung Nam bộ. Theo đó, buôn bán đối ngoại đường biểngiữa Trung Quốc và Việt Nam lúc này chủ yếu được triển khai qua các bến cảng nằm ởmiền Trung và miền Nam. Cụ thể là sự nổi lên của cảng Đà Nẵng (thay chân cảng HộiAn), là sự xuất hiện và ngày càng nổi bật của 2 cảng mới được khai thác: cảng Gia Địnhvà Hà Tiên.2. Nội dung nghiên cứu Quan hệ kinh tế trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XIX vớihoạt động mậu dịch trên biển diễn ra chủ yếu thông qua 3 con đường: thứ nhất là conđường từ Liêm Châu (Bắc Hải tỉnh Quảng Tây) đến cảng Hải Phòng (miền Bắc). Hànhtrình trên con đường này cần một đến 2 ngày. Thứ 2 là con đường từ Quảng Châu đếnĐà Nẵng. Nếu xuôi gió chỉ cần đi trong 5, 6 ngày thì có thể đến được. Con đường thứ 3từ Hạ Môn đến Hội An (tỉnh Quảng Nam). Hành trình trên con đường này phải đi quaThất Châu Dương (quần đảo Nam Sa) ở biển Nam Hải nên hơi dài. Về phía Việt Nam, các78 Quan hệ kinh tế trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XIXthương thuyền có thể xuất phát từ các cảng Đà Nẵng, Hội An để đi đến các cảng QuảngChâu, Ninh Ba, Hạ Môn, Nam Kinh ven biển phía Đông Nam Trung Quốc và cảng CơLong của Đài Loan để tiến hành buôn bán. Cũng như buôn bán trên bộ, trong mậu dịch đường biển, triều Nguyễn cũng dànhnhiều ưu ái đặc biệt cho các thương thuyền người Hoa, thể hiện trong chế độ thuế khóa,tự do buôn bán ở các cảng. . . Ví như, dưới thời Minh Mạng, các tàu buôn phương Tây chỉđược phép tới đậu tại hải cảng Đà Nẵng, trong khi thuyền buôn nhà Thanh thì được buônbán tại các cảng biển khác. Hay trong quy định về thuế khóa, sự ưu ái dành cho thươngthuyền người Hoa cũng bộc lộ rõ nét. Lúc bấy giờ, mức thuế mà người Hoa phải đóng chỉngang mức thuế của chủ thuyền người Việt. Về điều này, năm 1811, triều đình Nguyễntrong việc trưng dụng thuyền của tư nhân để vận tải cho nhà nước đã ban lệnh truyền rằng:“chuẩn định từ nay phàm dân sở tại và người Thanh ngụ tại các địa phương ai có đóngthuyền từ 7 thước trở lên, 17 thước 9 tấc trở xuống, thì một năm phải chở (cho Nhà nước)và một năm đi buôn” [1;106]. Thái độ ưu đãi đó đối với thương thuyền người Hoa cònđược thể hiện qua những sắc lệnh khác. Ví dụ, năm 1814, sau khi làm việc với Thươngvụ Quảng Đông, vua Gia Long đã chuẩn định cho thuyền buôn Trung Quốc rằng: “Từnay, những thuyền buôn Hải Nam, Triều Châu có bãi thuyền ở cửa quan Việt Hải (thuộctỉnh Quảng Đông), cùng ấn và chữ kí của viên quan Giang Môn thì theo lệ thuyền QuảngĐông mà đóng” [2;219]. Với những chính sách tương đối cởi mở và ưu ái đó, trong nửa đầu thế kỷ XIX, sốlượng thuyền buôn Trung Quốc đến các cảng biển Việt Nam buôn bán ngày càng nhiều.Theo Crawfurd cho biết: ở Hội An, hàng năm có 16 chiếc, trọng tải tổng cộng khoảng3.000 tấn; ở Huế, hàng năm có 12 chiếc, trọng tải tổng cộng khoảng 2500 tấn; ở các cảngBắc Bộ hàng năm có 38 chiếc, trọng tải tổng cộng 5000 tấn. Đặc biệt, ở Sài Gòn, hàngnăm có khoảng 30 chiếc thuyền Trung Quốc với trọng tải tổng cộng khoảng 6500 tấn đếnbuôn bán, chia ra như sau: - 15 đến 25 thuyền buồm của Hải Nam có sức chở từ 2000 đến 2500 tạ (picul) mỗichiếc. - 2 thuyền buồm của Quảng Châu, một chiếc có sức chỏ 5000 tạ, một chiếc có sứcchở 8000 tạ. - 1 thuyền của Amoy có sức chở 7000 tạ. - 6 thuyền của cảng Saocheu (tỉnh Giang Nam) có sức ...

Tài liệu được xem nhiều: