Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _2
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 185.44 KB
Lượt xem: 8
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Như vậy, các tác giả đã đề cập đến khá nhiều phương diện của hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Quan niệm này vừa có sự kế thừa, tiếp nối truyền thống vừa có sự phát triển, nâng cao trên nền tảng tri thức, tư tưởng chịu ảnh hưởng rất rõ những trào lưu văn học phương Tây hiện đại.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _2 Quan niệm thơ củanhóm Xuân Thu nhã tập Như vậy, các tác giả đã đề cập đến khá nhiều phương diện của hoạt động sáng tạonghệ thuật. Quan niệm này vừa có sự kế thừa, tiếp nối truyền thống vừa có sự phát triển,nâng cao trên nền tảng tri thức, tư tưởng chịu ảnh hưởng rất rõ những trào lưu văn họcphương Tây hiện đại. Cho dù nội dung có chỗ còn trùng lặp, cách diễn đạt nhiều khi đạingôn, hoa mĩ, việc lạm dụng từ Hán Việt, các dấu gạch ngang v.v... đem lại cảm giácnặng nề và rườm rà trong cách trình bày, người đọc vẫn có thể “đọc” thấy rất rõ lí tưởng,tâm huyết của các tác giả đối với thơ và “nghề thơ”. Điều đáng nói thêm là những vấnđề này đã được các tác giả cố gắng đúc kết như những quan điểm lí thuyết nhằm địnhhướng và chỉ đạo cho chính hoạt động sáng tác cụ thể của họ. 3. Trong tập Xuân thu nhã tập, ngoài các tiểu luận, còn có ba bài thơ của PhạmVăn Hạnh (Thư thơ, Người có nghe, Giọt sương hoa), ba bài thơ của Nguyễn Xuân Sanh(Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu), một bài thơ của Đoàn Phú Tứ (Màu thờigian), một bản nhạc của Nguyễn Xuân Khoát và một bức tranh của Nguyễn Đỗ Cung.Đây là những sáng tác vừa đóng vai trò “thử nghiệm” vừa đóng vai trò “minh chứng”cho những tuyên ngôn lí thuyết đã được đúc kết trong các tiểu luận. Số lượng sáng tácnhư vậy không nhiều, nếu không nói thật ít ỏi. Tuy nhiên, nhìn vào đây cũng có thể thấyđược rằng những luận điểm lí thuyết chính (đặc biệt là trong tiểu luận Thơ) đã được cáctác giả khai triển và ứng dụng ngay trên các văn bản thơ của họ. Hàm súc, tượng trưng là đặc điểm nổi bật trong các thi phẩm Xuân thu nhã tập.Theo ý kiến của một số nhà phê bình (Lê Huy Vân, Đinh Gia Trinh, Đỗ Lai Thuý, ThuỵKhuê...), các tác giả Xuân thu nhã tập đã vận dụng khá hiệu quả nhiều thủ pháp nghệthuật thơ hiện đại, chẳng hạn thủ pháp “lắp ghép” hình ảnh, tạo nên sự gián đoạn tuyếntính, nhằm khêu gợi trí tưởng tượng; chú ý phát huy các yếu tố vô thức, trực giác; sử dụngbiểu tượng, âm nhạc nhằm kích thích, dẫn dụ cảm xúc... Những đặc điểm này được thểhiện rất rõ trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Sanh, người được xem là “hiện đại hơn cả”so với nhóm. Hãy đọc lại một số câu trong bài thơ Buồn xưa của ông: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y Rượu hát bầu vàng cung ướp hương Ngón hường say tóc nhạc trầm mi Lẵng xuân Bờ giũ trái xuân sa Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa Buồn hưởng vườn người vai suối tươi Ngàn mày tràng giang buồn muôn đời Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu Duyên vàng da lộng trái du người... Quả thực, cách tổ chức ngôn từ trong những câu thơ này không tuân thủ theo trậttự tuyến tính thông thường. Kết nối giữa các hình ảnh, từ ngữ trong câu thơ hết sức lỏnglẻo. Mỗi câu là một tập hợp của những hình ảnh độc lập, thậm chí, xa lạ vớinhau: Quỳnh/ hoa/ chiều/ đọng/ nhạc/ trầm/ mi... Có lẽ đó cũng là lí do khiến cho độcgiả, trước thơ Nguyễn Xuân Sanh, thường có cái cảm giác bất lực của người đứng trướcngôi nhà nhưng đã đánh mất chìa khoá vào cửa. Tuy nhiên, cũng như khi thưởng thứcmột bức tranh siêu thực, nếu chỉ chú mục vào từng sự vật, hiện tượng cụ thể, sẽ chỉ nhậnđược ấn tượng về một sự kì dị, hỗn độn, thậm chí quái đản, nhưng khi lùi xa, đặt chúngtrong một cái nhìn tổng thể, sẽ thấy sự phi logic ấy có khi chính là cách diễn tả mới vềhiện thực và qua đó, thế giới hiện lên theo một cách hoàn toàn khác. Buồn xưa củaNguyễn Xuân Sanh, trước hết là một thế giới bị phân rã thành muôn hình ảnh đơn lẻ.Trong thế giới ấy, thực tại là quỳnh, hoa, chiều, nhạc, trầm...; quá khứ là cung ướphương, hoàng tử, tỳ bà, rượu, nhạc, buổi du dương, sương cũ, rừng xa....; con ngườilà mi, mày, tóc, vai, môi, da, ngực, vú, ngón hường, dấu xiêm y... Nhưng sự phân rã triệtđể ấy là điều kiện để quá khứ có thể hoá chuyển tức thì thành thực tại trên cùng một trụccú pháp và ngược lại: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi... Hoa, tiếng nhạc, hươngtrầm là ngày hôm nay nhưng cũng là của ngày đã qua. Đúng hơn, quá khứ và hiện tạilung linh đồng hiện. Những “mảnh ghép” vô thức đã khiến Buồn xưa, từ một hoài niệmtĩnh vật trở thành một thế giới đa sắc với những chuyển động thầm kín và bí mật. Nhữnghình ảnh thơ, vượt lên kĩ thuật “ghép chữ” thuần lí, như đột hiện từ cõi tâm linh thămthẳm, trở nên vừa xác thực, vừa mơ hồ, vừa quen thuộc, vừa dị thường, mọi ranh giớichia cắt, phân ly bỗng nhoè lẫn... Bởi vậy, các hiện tượng đời sống vốn rất xa lạ bỗngdưng có thể hợp nhất trong một mối quan hệ gần gũi và phát lộ những trạng thái phithực, lạ lùng: chiều đọng, rượu hát, tóc nhạc, lẵng xuân, hồn xanh ngát, mày trànggiang... Các lớp hình ảnh hoà lẫn vào nhau, dệt nên một giấc mơ hư ảo, chập chờn vềmột quá khứ đẹp và buồn, gợi nhiều nhớ nhung, hoài niệm. Đấy là thế giới được khaimở từ cái nhìn khác,cái nhìn siêu thự ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _2 Quan niệm thơ củanhóm Xuân Thu nhã tập Như vậy, các tác giả đã đề cập đến khá nhiều phương diện của hoạt động sáng tạonghệ thuật. Quan niệm này vừa có sự kế thừa, tiếp nối truyền thống vừa có sự phát triển,nâng cao trên nền tảng tri thức, tư tưởng chịu ảnh hưởng rất rõ những trào lưu văn họcphương Tây hiện đại. Cho dù nội dung có chỗ còn trùng lặp, cách diễn đạt nhiều khi đạingôn, hoa mĩ, việc lạm dụng từ Hán Việt, các dấu gạch ngang v.v... đem lại cảm giácnặng nề và rườm rà trong cách trình bày, người đọc vẫn có thể “đọc” thấy rất rõ lí tưởng,tâm huyết của các tác giả đối với thơ và “nghề thơ”. Điều đáng nói thêm là những vấnđề này đã được các tác giả cố gắng đúc kết như những quan điểm lí thuyết nhằm địnhhướng và chỉ đạo cho chính hoạt động sáng tác cụ thể của họ. 3. Trong tập Xuân thu nhã tập, ngoài các tiểu luận, còn có ba bài thơ của PhạmVăn Hạnh (Thư thơ, Người có nghe, Giọt sương hoa), ba bài thơ của Nguyễn Xuân Sanh(Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu), một bài thơ của Đoàn Phú Tứ (Màu thờigian), một bản nhạc của Nguyễn Xuân Khoát và một bức tranh của Nguyễn Đỗ Cung.Đây là những sáng tác vừa đóng vai trò “thử nghiệm” vừa đóng vai trò “minh chứng”cho những tuyên ngôn lí thuyết đã được đúc kết trong các tiểu luận. Số lượng sáng tácnhư vậy không nhiều, nếu không nói thật ít ỏi. Tuy nhiên, nhìn vào đây cũng có thể thấyđược rằng những luận điểm lí thuyết chính (đặc biệt là trong tiểu luận Thơ) đã được cáctác giả khai triển và ứng dụng ngay trên các văn bản thơ của họ. Hàm súc, tượng trưng là đặc điểm nổi bật trong các thi phẩm Xuân thu nhã tập.Theo ý kiến của một số nhà phê bình (Lê Huy Vân, Đinh Gia Trinh, Đỗ Lai Thuý, ThuỵKhuê...), các tác giả Xuân thu nhã tập đã vận dụng khá hiệu quả nhiều thủ pháp nghệthuật thơ hiện đại, chẳng hạn thủ pháp “lắp ghép” hình ảnh, tạo nên sự gián đoạn tuyếntính, nhằm khêu gợi trí tưởng tượng; chú ý phát huy các yếu tố vô thức, trực giác; sử dụngbiểu tượng, âm nhạc nhằm kích thích, dẫn dụ cảm xúc... Những đặc điểm này được thểhiện rất rõ trong tác phẩm của Nguyễn Xuân Sanh, người được xem là “hiện đại hơn cả”so với nhóm. Hãy đọc lại một số câu trong bài thơ Buồn xưa của ông: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y Rượu hát bầu vàng cung ướp hương Ngón hường say tóc nhạc trầm mi Lẵng xuân Bờ giũ trái xuân sa Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa Buồn hưởng vườn người vai suối tươi Ngàn mày tràng giang buồn muôn đời Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu Duyên vàng da lộng trái du người... Quả thực, cách tổ chức ngôn từ trong những câu thơ này không tuân thủ theo trậttự tuyến tính thông thường. Kết nối giữa các hình ảnh, từ ngữ trong câu thơ hết sức lỏnglẻo. Mỗi câu là một tập hợp của những hình ảnh độc lập, thậm chí, xa lạ vớinhau: Quỳnh/ hoa/ chiều/ đọng/ nhạc/ trầm/ mi... Có lẽ đó cũng là lí do khiến cho độcgiả, trước thơ Nguyễn Xuân Sanh, thường có cái cảm giác bất lực của người đứng trướcngôi nhà nhưng đã đánh mất chìa khoá vào cửa. Tuy nhiên, cũng như khi thưởng thứcmột bức tranh siêu thực, nếu chỉ chú mục vào từng sự vật, hiện tượng cụ thể, sẽ chỉ nhậnđược ấn tượng về một sự kì dị, hỗn độn, thậm chí quái đản, nhưng khi lùi xa, đặt chúngtrong một cái nhìn tổng thể, sẽ thấy sự phi logic ấy có khi chính là cách diễn tả mới vềhiện thực và qua đó, thế giới hiện lên theo một cách hoàn toàn khác. Buồn xưa củaNguyễn Xuân Sanh, trước hết là một thế giới bị phân rã thành muôn hình ảnh đơn lẻ.Trong thế giới ấy, thực tại là quỳnh, hoa, chiều, nhạc, trầm...; quá khứ là cung ướphương, hoàng tử, tỳ bà, rượu, nhạc, buổi du dương, sương cũ, rừng xa....; con ngườilà mi, mày, tóc, vai, môi, da, ngực, vú, ngón hường, dấu xiêm y... Nhưng sự phân rã triệtđể ấy là điều kiện để quá khứ có thể hoá chuyển tức thì thành thực tại trên cùng một trụccú pháp và ngược lại: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi... Hoa, tiếng nhạc, hươngtrầm là ngày hôm nay nhưng cũng là của ngày đã qua. Đúng hơn, quá khứ và hiện tạilung linh đồng hiện. Những “mảnh ghép” vô thức đã khiến Buồn xưa, từ một hoài niệmtĩnh vật trở thành một thế giới đa sắc với những chuyển động thầm kín và bí mật. Nhữnghình ảnh thơ, vượt lên kĩ thuật “ghép chữ” thuần lí, như đột hiện từ cõi tâm linh thămthẳm, trở nên vừa xác thực, vừa mơ hồ, vừa quen thuộc, vừa dị thường, mọi ranh giớichia cắt, phân ly bỗng nhoè lẫn... Bởi vậy, các hiện tượng đời sống vốn rất xa lạ bỗngdưng có thể hợp nhất trong một mối quan hệ gần gũi và phát lộ những trạng thái phithực, lạ lùng: chiều đọng, rượu hát, tóc nhạc, lẵng xuân, hồn xanh ngát, mày trànggiang... Các lớp hình ảnh hoà lẫn vào nhau, dệt nên một giấc mơ hư ảo, chập chờn vềmột quá khứ đẹp và buồn, gợi nhiều nhớ nhung, hoài niệm. Đấy là thế giới được khaimở từ cái nhìn khác,cái nhìn siêu thự ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3395 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 787 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 746 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 713 0 0 -
6 trang 609 0 0
-
2 trang 456 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 390 0 0 -
4 trang 362 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 308 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 240 0 0