Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _3
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 200.42 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nhưng sự phân rã triệt để ấy là điều kiện để quá khứ có thể hoá chuyển tức thì thành thực tại trên cùng một trục cú pháp và ngược lại: Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _3 Quan niệm thơ củanhóm Xuân Thu nhã tập Nhưng sự phân rã triệt để ấy là điều kiện để quá khứ có thể hoá chuyển tức thìthành thực tại trên cùng một trục cú pháp và ngược lại: Quỳnh hoa chiều đọng nhạctrầm mi... Hoa, tiếng nhạc, hương trầm là ngày hôm nay nhưng cũng là của ngày đã qua.Đúng hơn, quá khứ và hiện tại lung linh đồng hiện. Những “mảnh ghép” vô thức đãkhiến Buồn xưa, từ một hoài niệm tĩnh vật trở thành một thế giới đa sắc với nhữngchuyển động thầm kín và bí mật. Những hình ảnh thơ, vượt lên kĩ thuật “ghép chữ”thuần lí, như đột hiện từ cõi tâm linh thăm thẳm, trở nên vừa xác thực, vừa mơ hồ, vừaquen thuộc, vừa dị thường, mọi ranh giới chia cắt, phân ly bỗng nhoè lẫn... Bởi vậy, cáchiện tượng đời sống vốn rất xa lạ bỗng dưng có thể hợp nhất trong một mối quan hệ gầngũi và phát lộ những trạng thái phi thực, lạ lùng: chiều đọng, rượu hát, tóc nhạc, lẵngxuân, hồn xanh ngát, mày tràng giang... Các lớp hình ảnh hoà lẫn vào nhau, dệt nên mộtgiấc mơ hư ảo, chập chờn về một quá khứ đẹp và buồn, gợi nhiều nhớ nhung, hoài niệm.Đấy là thế giới được khai mở từ cái nhìn khác,cái nhìn siêu thực. Nhưng xuyên qua lớpthực tại này, Buồn xưa còn là một nghiệm chứng thời gian, thời gian từ một buổi“chiềuđọng nhạc trầm mi” cụ thể tới ý niệm thời gian của “nhịp hải hà” vô cùng, vô tận. Thờigian đã biến Cái đẹp trở thành nỗi hoài niệm quá vãng, thành những “mùa xưa”, “tócxưa”,”sương cũ”, “rừng xa”, “hồn xa”.... Không phải ngẫu nhiên mà xuyên suốt bàithơ là hình ảnh nỗi buồn, một nỗi buồn đã được tượng hình hoá, “mĩ lệ hoá”: buồn nàogội tóc xưa, buồn vây tóc mưa, buồn muôn đời, nguồn buồn lạnh lẽo... Đấy là nỗi buồntrước Cái đẹp phôi pha. Nỗi buồn trước thời gian “tưới hận chìm tường”. Thời gian đãtrở thành một ám ảnh đặc biệt với thi sĩ. Vấn đề là ở đây, triết lí thời gian (đã là một thiđề kinh điển, đặc biệt trong thơ cổ phương Đông), không hiện lên như một ẩn dụ đơnnghĩa: nó đã trở thành một biểu tượng trùng phức, có khả năng mở ra nhiều chiều liêntưởng. Như vậy, sự lỏng lẻo trong kết cấu ngôn từ, một mặt, sẽ tạo nên sự gián đoạn, đứtgãy trong hình ảnh, ý nghĩa, do đó, bài thơ sẽ khó “đọc”, khó hiểu. Nhưng mặt khác,cách tổ chức ngôn từ ấy có khả năng tạo độ dồn nén và mơ hồ trong ý nghĩa, gợi mởchiều sâu mĩ cảm. Nhìn chung, tính tượng trưng, ám gợi trong thơ của các tác giả Xuân thu nhãtập được tạo nên bởi nhiều yếu tố: các thủ pháp lựa chọn và sử dụng từ ngữ, cách xâydựng những hình ảnh giàu tính biểu tượng, cách tổ chức ngôn từ theo sự dắt dẫn của âmnhạc.... Cách họ sắp đặt những hình ảnh, sự vật xa lạ cạnh nhau, trong nhiều trường hợp,đã tạo nên những kênh liên tưởng “tân kì”, những cảm nhận đột ngột, bất ngờ, những“cú sốc” trong nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ, chẳng hạn: nhánh nhạc gầy, sóng thắmxoã muôn dây, gió dị ào trong tóc, hoa khép oà lên ... (Phạm Văn Hạnh); lẵng xuân;nhịp hải hà, ngón hường say tóc nhạc trầm mi, tóc xuân bưng đỉnh chiều đầy; trầm ngànmùa, tóc buông xây, bình tàn thu vai phấn nghiêng rơi... (Nguyễn Xuân Sanh)... Nhữngthủ pháp nghệ thuật này đã góp phần tạo dựng nên Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ) nhưmột biểu tượng thơ độc đáo. Ở đây, câu chuyện về một tình yêu quá khứ đã quyện hoàtrong cảm thức thời gian.Tiếng chim, gió, trời mây, tóc mây, mày hoa... là những phânmảnh của một dòng nội tâm sâu thẳm. Giữa “sớm nay” và“ngàn xưa”, giữa “duyêntrăm năm” và “tình một thuở”, giữa không gian và thời gian, mùi hương và sắc màu, hơiấm và thanh âm..., tất cả đã tạo nên một thế giới của sự hoà điệu và “tương ứng” (Ch.Baudelaire). Cùng sự ngắt nhịp, phối thanh linh hoạt, sự xuất hiện và láy lại đầy chủ ýcủa những cụm từ như “thanh thanh”, “tím ngát”... đã góp phần tạo nên cảm giácvương vấn, lan toả dịu dàng giữa những câu chữ. Và tình yêu con người, qua cách diễntả ấy, hiện lên như một lớp tồn tại khác của đời sống, như là vĩnh viễn, ngoài không gianvà thời gian. Cùng với nghệ thuật xây dựng hình ảnh, âm nhạc là một yếu tố rất đượccác tác giả Xuân thu nhã tập coi trọng. Nhạc tính trong thơ họ được tạo nên bởi sự hàihoà của hình ảnh, câu chữ, thanh điệu, nhằm ám gợi một trạng thái vi diệu và mơ hồ củađời sống. Nó có vai trò như một thứ “biểu tượng” độc đáo trong thơ tượng trưng, do đó,P. Verlaine từng nhấn mạnh: Âm nhạc trước hết mọi điều/ Vì vậy, hãy yêu thích nhịplẻ (Nghệ thuật thơ). Đặc điểm này cũng thể hiện rõ trong những bài thơ văn xuôi củaPhạm Văn Hạnh. Những câu thơ được nối kết với nhau bằng một “nhịp điệu bên trong”rất đặc biệt: Tôi mò hạt mơ trong bể sách, bế trên tay một ý diệm kiều. Tối kia, ra phố.Chuông người tôi ngân vang các ngả./ Thao thức chờ mặt trời. Hăm hở lên lầu Tuyệt -Đích... Đêm nay, tôi xây mồ ảo - vọng./ Hơi thoảng nhớ lay tôi trên đường Hoa. Cảnhxứ lạ, mà sao hệt quê nhà. Hớn hở bước tới, hay êm dịu trở về?/ Cạch, cạch... Để tôi mơnốt bài thơ xưa! Chỉ ngày mai thôi, mặt trời trở lại/ - Cửa bật, gió ùa, chỉ ngày maithôi... Nhưng lòn ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _3 Quan niệm thơ củanhóm Xuân Thu nhã tập Nhưng sự phân rã triệt để ấy là điều kiện để quá khứ có thể hoá chuyển tức thìthành thực tại trên cùng một trục cú pháp và ngược lại: Quỳnh hoa chiều đọng nhạctrầm mi... Hoa, tiếng nhạc, hương trầm là ngày hôm nay nhưng cũng là của ngày đã qua.Đúng hơn, quá khứ và hiện tại lung linh đồng hiện. Những “mảnh ghép” vô thức đãkhiến Buồn xưa, từ một hoài niệm tĩnh vật trở thành một thế giới đa sắc với nhữngchuyển động thầm kín và bí mật. Những hình ảnh thơ, vượt lên kĩ thuật “ghép chữ”thuần lí, như đột hiện từ cõi tâm linh thăm thẳm, trở nên vừa xác thực, vừa mơ hồ, vừaquen thuộc, vừa dị thường, mọi ranh giới chia cắt, phân ly bỗng nhoè lẫn... Bởi vậy, cáchiện tượng đời sống vốn rất xa lạ bỗng dưng có thể hợp nhất trong một mối quan hệ gầngũi và phát lộ những trạng thái phi thực, lạ lùng: chiều đọng, rượu hát, tóc nhạc, lẵngxuân, hồn xanh ngát, mày tràng giang... Các lớp hình ảnh hoà lẫn vào nhau, dệt nên mộtgiấc mơ hư ảo, chập chờn về một quá khứ đẹp và buồn, gợi nhiều nhớ nhung, hoài niệm.Đấy là thế giới được khai mở từ cái nhìn khác,cái nhìn siêu thực. Nhưng xuyên qua lớpthực tại này, Buồn xưa còn là một nghiệm chứng thời gian, thời gian từ một buổi“chiềuđọng nhạc trầm mi” cụ thể tới ý niệm thời gian của “nhịp hải hà” vô cùng, vô tận. Thờigian đã biến Cái đẹp trở thành nỗi hoài niệm quá vãng, thành những “mùa xưa”, “tócxưa”,”sương cũ”, “rừng xa”, “hồn xa”.... Không phải ngẫu nhiên mà xuyên suốt bàithơ là hình ảnh nỗi buồn, một nỗi buồn đã được tượng hình hoá, “mĩ lệ hoá”: buồn nàogội tóc xưa, buồn vây tóc mưa, buồn muôn đời, nguồn buồn lạnh lẽo... Đấy là nỗi buồntrước Cái đẹp phôi pha. Nỗi buồn trước thời gian “tưới hận chìm tường”. Thời gian đãtrở thành một ám ảnh đặc biệt với thi sĩ. Vấn đề là ở đây, triết lí thời gian (đã là một thiđề kinh điển, đặc biệt trong thơ cổ phương Đông), không hiện lên như một ẩn dụ đơnnghĩa: nó đã trở thành một biểu tượng trùng phức, có khả năng mở ra nhiều chiều liêntưởng. Như vậy, sự lỏng lẻo trong kết cấu ngôn từ, một mặt, sẽ tạo nên sự gián đoạn, đứtgãy trong hình ảnh, ý nghĩa, do đó, bài thơ sẽ khó “đọc”, khó hiểu. Nhưng mặt khác,cách tổ chức ngôn từ ấy có khả năng tạo độ dồn nén và mơ hồ trong ý nghĩa, gợi mởchiều sâu mĩ cảm. Nhìn chung, tính tượng trưng, ám gợi trong thơ của các tác giả Xuân thu nhãtập được tạo nên bởi nhiều yếu tố: các thủ pháp lựa chọn và sử dụng từ ngữ, cách xâydựng những hình ảnh giàu tính biểu tượng, cách tổ chức ngôn từ theo sự dắt dẫn của âmnhạc.... Cách họ sắp đặt những hình ảnh, sự vật xa lạ cạnh nhau, trong nhiều trường hợp,đã tạo nên những kênh liên tưởng “tân kì”, những cảm nhận đột ngột, bất ngờ, những“cú sốc” trong nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ, chẳng hạn: nhánh nhạc gầy, sóng thắmxoã muôn dây, gió dị ào trong tóc, hoa khép oà lên ... (Phạm Văn Hạnh); lẵng xuân;nhịp hải hà, ngón hường say tóc nhạc trầm mi, tóc xuân bưng đỉnh chiều đầy; trầm ngànmùa, tóc buông xây, bình tàn thu vai phấn nghiêng rơi... (Nguyễn Xuân Sanh)... Nhữngthủ pháp nghệ thuật này đã góp phần tạo dựng nên Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ) nhưmột biểu tượng thơ độc đáo. Ở đây, câu chuyện về một tình yêu quá khứ đã quyện hoàtrong cảm thức thời gian.Tiếng chim, gió, trời mây, tóc mây, mày hoa... là những phânmảnh của một dòng nội tâm sâu thẳm. Giữa “sớm nay” và“ngàn xưa”, giữa “duyêntrăm năm” và “tình một thuở”, giữa không gian và thời gian, mùi hương và sắc màu, hơiấm và thanh âm..., tất cả đã tạo nên một thế giới của sự hoà điệu và “tương ứng” (Ch.Baudelaire). Cùng sự ngắt nhịp, phối thanh linh hoạt, sự xuất hiện và láy lại đầy chủ ýcủa những cụm từ như “thanh thanh”, “tím ngát”... đã góp phần tạo nên cảm giácvương vấn, lan toả dịu dàng giữa những câu chữ. Và tình yêu con người, qua cách diễntả ấy, hiện lên như một lớp tồn tại khác của đời sống, như là vĩnh viễn, ngoài không gianvà thời gian. Cùng với nghệ thuật xây dựng hình ảnh, âm nhạc là một yếu tố rất đượccác tác giả Xuân thu nhã tập coi trọng. Nhạc tính trong thơ họ được tạo nên bởi sự hàihoà của hình ảnh, câu chữ, thanh điệu, nhằm ám gợi một trạng thái vi diệu và mơ hồ củađời sống. Nó có vai trò như một thứ “biểu tượng” độc đáo trong thơ tượng trưng, do đó,P. Verlaine từng nhấn mạnh: Âm nhạc trước hết mọi điều/ Vì vậy, hãy yêu thích nhịplẻ (Nghệ thuật thơ). Đặc điểm này cũng thể hiện rõ trong những bài thơ văn xuôi củaPhạm Văn Hạnh. Những câu thơ được nối kết với nhau bằng một “nhịp điệu bên trong”rất đặc biệt: Tôi mò hạt mơ trong bể sách, bế trên tay một ý diệm kiều. Tối kia, ra phố.Chuông người tôi ngân vang các ngả./ Thao thức chờ mặt trời. Hăm hở lên lầu Tuyệt -Đích... Đêm nay, tôi xây mồ ảo - vọng./ Hơi thoảng nhớ lay tôi trên đường Hoa. Cảnhxứ lạ, mà sao hệt quê nhà. Hớn hở bước tới, hay êm dịu trở về?/ Cạch, cạch... Để tôi mơnốt bài thơ xưa! Chỉ ngày mai thôi, mặt trời trở lại/ - Cửa bật, gió ùa, chỉ ngày maithôi... Nhưng lòn ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3398 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 788 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 749 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 717 0 0 -
6 trang 610 0 0
-
2 trang 459 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 394 0 0 -
4 trang 371 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 314 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 244 0 0