Danh mục

Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _4

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 189.13 KB      Lượt xem: 9      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

1. Xuất hiện vào quãng 1939-1942, Xuân thu nhã tập là sự tiếp tục của những tìm tòi nghệ thuật trên tiến trình vận động và phát triển theo hướng hiện đại chủ nghĩa của Thơ mới.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập _4Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập 1. Xuất hiện vào quãng 1939-1942, Xuân thu nhã tập là sự tiếp tục của những tìmtòi nghệ thuật trên tiến trình vận động và phát triển theo hướng hiện đại chủ nghĩa củaThơ mới. “Tuyên ngôn” được đúc kết trong tập sách viết chung của các tác giảXuân thunhã tập(1), trước hết, là sự phản ứng lại những “cơn mưa trữ tình” trong nguyên tắc mĩhọc của các nhà Thơ mới lãng mạn đi trước, (mà vào thời điểm bấy giờ, đã bị khai thácđến cạn kiệt, trở nên xơ cứng, mòn sáo, do đó, đã mất đi cái “công năng” thực sự củanó). Dĩ nhiên đi cùng sự phủ định ấy là nỗ lực xác lập một quan niệm, một lí tưởng thẩmmĩ mới. Các tác giảXuân thu nhã tập rất có ý thức trong việc tìm tòi, đúc kết về mặt líthuyết sáng tạo cũng như trong việc “ứng dụng” các định hướng lí thuyết ấy vào sángtác cụ thể. Đấy là điều khá đặc biệt trong thời đại Thơ mới, thời mà nhà thơ vốn đượchình dung như một con người đa tình, đa cảm (Tôi chỉ là người khách tình si/ Ham vẻĐẹp có muôn hình muôn thể – Thế Lữ; Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm – HuyCận...) và hành động “làm thơ”, “làm nghệ thuật” thường được mô tả như là một hànhđộng mang tính bản năng, hồn nhiên, tự nhiên của những con người “giời bắt làm thi sĩ”(Nguyễn Bính), hoặc nói theo cách của Xuân Diệu, nhà thơ giống như “con chim đến từnúi lạ/ Ngứa cổ hát chơi”. Nhận thức, tư tưởng của tác giả thường được trình bày trongcác ý kiến, nhận định rải rác chứ hiếm khi được tập trung, đúc kết và “nâng cấp” thànhmột hệ thống lí thuyết, có ý nghĩa bao quát nhiều vấn đề của sáng tác. Thường thì nóđược “nhân thể” viết ra vì một mục đích khác: để làm căn cứ tranh luận với một ai đó,để giúp người đọc hiểu thêm về một tác giả, tác phẩm nào đó (các bài viết của Thế Lữ,Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, hay Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên... trong thời kì này là nhữngví dụ cụ thể). Điều này có thể do nhiều nguyên nhân. Trước hết là sự chi phối của quanniệm lãng mạn chủ nghĩa (rất đậm nét trong tư duy của các nhà Thơ mới) về thơ, rằngthơ là tiếng nói của trái tim, của cảm xúc, vì vậy, “Ai lí luận với ân tình chođáng” (Xuân Diệu). Thứ hai, nó có thể bị quy định bởi tính chất “nửa vời” của cáckhuynh hướng, trường phái trong Thơ mới. Điều này làm mất đi áp lực cần thiết thúcđẩy nhà thơ phải tìm kiếm, xây dựng những nền tảng lí thuyết nhằm hỗ trợ và địnhhướng những tìm tòi, cách tân trong sáng tác của mình. Nhìn rộng ra, điều này còn cóthể bắt nguồn từ một cách nghĩ khá phổ biến (ngay cả với bây giờ, ở giới cầm bút lẫnđộc giả), rằng yếu tố quyết định tên tuổi nhà thơ là tác phẩm chứ không phải là những“tuyên ngôn” của họ. Quan niệm này có hạt nhân hợp lí của nó. Tuy nhiên, xét đếncùng, bản chất của sự sáng tạo chính là sự nhận thức, cho nên, không chỉ hiện thực đờisống mà chính bản thân hoạt động sáng tác cũng cần phải thường xuyên được nhận thứcvà nhận thức lại. Nói như Octavio Paz, trong thơ hiện đại, sáng tác là phê bình và phêbình là sáng tác. Điều này không chỉ giúp người nghệ sĩ thoát ra khỏi tình trạng sáng tácbản năng, cảm tính (cố ý hoặc vô tình), mà còn giúp định hướng, gợi mở những cáchnghĩ, cách viết mới, tạo nền tảng tri thức và tư tưởng cho hoạt động sáng tác chuyênnghiệp. (Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là mỗi nhà thơ cần/ nên là một nhà phê bình,lí luận. Ở đây chỉ đề cập tới vấn đề ý thức nghề nghiệp của người sáng tác, một hoạtđộng tư tưởng cần thiết để người nghệ sĩ thực sự trở thành nghệ sĩ, nghệ sĩ – trí thức,theo cách nói của các tác giả Xuân thu nhã tập). Vẫn nằm trong “văn mạch” Thơ mới, nhưng sự cách tân trong quan niệm nghệthuật của Xuân thu nhã tập có những tiền đề lịch sử – xã hội cụ thể của nó. Theo mộtnhà nghiên cứu, những nguyên nhân chủ yếu đó là: a) đại chiến thế giới lần thứ hai bùngnổ, kéo theo sự thức nhận về một phương Tây tan vỡ và một phương Đông đang trỗi dậyđầy sức mạnh; b) bản chất “nửa vời” của cái Tôi đô thị Việt Nam; gánh nặng cô đơn vàkhát vọng tất yếu của nó nhằm tìm về hoà hợp với cái Ta; c) sự vận động tất yếu củaThơ mới(2). Nhưng để làm nên một hiện tượng Xuân thu nhã tập trong lịch sử thơ Việt,ngoài những tiền đề lịch sử – xã hội đó, cần phải kể đến một nguyên nhân nội tại, mangtính quyết định: sự gặp gỡ và hội tụ của những chủ thể sáng tạo đầy tâm huyết, đầy ýthức về mối quan hệ tương hỗ, hữu cơ giữa lí thuyết và sáng tác cũng như về việc phảitìm kiếm và xây dựng một con đường phát triển thi ca (cũng như nghệ thuật nói chung)có tính lâu dài, bền vững. Tác phẩm của họ cho thấy một tình yêu nghệ thuật sâu sắctrên nền tảng những tư tưởng, nhận thức hiện đại và khát vọng chính đáng của ngườinghệ sĩ nhằm đóng góp “một chút gì” hữu ích cho nền thơ dân tộc, rộng hơn, cho quátrình kiến thiết đời sống tinh thần của con người Việt Nam trong một thời cuộc lịch sửmới. Tinh thần tiên phong, hiện đại đi cùng ý thức dân tộc thể hiện rõ ở những tuyênngôn sáng tạo của họ: “Tìm con đường thực, nối liền nguồn - gốc xưa ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: