Danh mục

Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập .

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 191.66 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Ở cấp độ phân tích thứ ba, khái niệm “thơ” được xem xét trong tư cách là một đơn vị chỉnh thể ngôn ngữ - một bài thơ
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập .Quan niệm thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập Ở cấp độ phân tích thứ ba, khái niệm “thơ” được xem xét trong tư cách là một đơnvị chỉnh thể ngôn ngữ - một bài thơ. Theo các tác giả Xuân thu nhã tập, hiểu một cáchrộng rãi, “một vật chỉ là “Thơ” khi nào có sự rung động. Và chỉ là “bài thơ” khi nào cósự truyền lan sự rung động ấy” (Thơ). Hiểu theo một nghĩa chặt chẽ hơn, “bài thơ” (kếtbằng những câu có vần điệu hay theo những niêm luật rõ rệt hay tiềm tàng) có được trọnvẹn cái lượng và cái phẩm nói trên kia. “Tiêu chuẩn về hình thức thơ là tính - cách - độc- nhất” (Thơ) Điều này đòi hỏi mỗi bài thơ là một sáng tạo mới, độc đáo, có tính “duynhất”. Hình ảnh, ngôn từ, nhạc tính, kết cấu... tất cả được tổ chức chặt chẽ để biến mộtbài thơ thành một sinh thể. Điều này dẫn đến kết quả là khi “đọc xong “bài thơ”, ta bị ynguyên những câu, những tiếng của toàn bài chi phối. Hình thể, cùng lúc với hồn, sốngmãi trong ta (lưỡng tính của thơ). Và ta không thể di dịch một âm thanh, một hình ảnhmà không phản bội và tàn phá” (Thơ). Nếu tách rời quan niệm này ra khỏi hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của nó, sẽ rất dễ kếtluận rằng đấy là những “tuyên ngôn” cực đoan và phiến diện. Thực tế cho đến thờiđiểm Xuân thu nhã tập xuất hiện (thậm chí cả sau đó nữa), chiếm vị trí thống soái trênthi đàn Thơ mới vẫn là khuynh hướng sáng tác lãng mạn chủ nghĩa, với sự đề cao cái tôicảm xúc, chú trọng lối thể hiện trực tiếp, cách nói “giãi bày”, “trút xả”, dẫn đến hậu quảlà lộ ý, rậm lời (mà Xuân Diệu là một trường hợp tiêu biểu). Thế nên những tuyên ngônkể trên trước hết là một “phản ứng” thẩm mĩ cần thiết, nhằm thay đổi những cách nghĩ,cách viết đã kịp trở thành khuôn sáo, thành những công thức mới của thời đại. Do đó, sựcực đoan hay thái quá trong cách nói cũng là điều có thể hiểu - nó nhằm mục đích tạonên “cú sốc” để nhanh chóng thay đổi nhận thức ở người đọc. Mặt khác, bản thân quanniệm này cũng có những đóng góp tích cực của nó. Thực ra, “ cô đọng”, “hàm súc” hay“trực giác”, “tiềm thức” “thuần tuý”... chỉ là những cách nói nhằm nhấn mạnh về “tínhthơ”, “tính nghệ thuật”, tức về cái bản chất phổ quát của thơ (từng được đề cập khá phổbiến trong quan niệm thơ cổ điển phương Đông và cũng như trong quan niệm của cácnhà tượng trưng chủ nghĩa phương Tây). Việc đề cao tính tượng trưng, sự ám gợi trongthơ, nhấn mạnh vai trò biểu tượng, nhạc tính, coi trọng những tìm tòi về hình thức thơ...,thực chất cũng đồng nghĩa với việc phải gia tăng chất trí tuệ và tư tưởng (theo nghĩa triếthọc chứ không phải theo nghĩa chính trị) trong thơ buộc người sáng tạo phải đối mặt vớinhiều thử thách hơn, hành trình tiếp nhận của người đọc, vì thế cũng sẽ gian nan và vấtvả hơn. Nhưng mặt khác, nó cũng sẽ giúp thơ trở thành “một sản phẩm trí tuệ cao cấp”và hành trình sáng tạo cũng như tiếp nhận sẽ được đền bù bằng những khoái cảm tinhthần xứng đáng. Dĩ nhiên, đấy là một cách quan niệm. Nhưng dù ta đồng thuận haykhông, đấy vẫn là một quan niệm có khả năng gợi mở nhiều suy nghĩ về thơ và hoạtđộng sáng tạo nghệ thuật nói chung. Bàn về thơ, như một tất yếu, không thể không nói đến vấn đề nghệ sĩ, thiên chứcnghệ sĩ và bản chất sự sáng tạo. Các tác giả Xuân thu nhã tập bắt đầu sự lí giải bằng mốiquan hệ giữa cái TÔI và cái TA. Cái Tôi được hiểu như là sự khép kín, sự thu hẹp tronggiới hạn cá nhân, đối lập với cái Ta - tinh thần vũ trụ, cõi Vô Cùng siêu việt, cao cả.Hành trình từ Tôi đến Ta là một cuộc giải phóng, một sự giác ngộ. Sáng tạo chính là conđường đi từ cái Tôi đến cái Ta, hành trình người nghệ sĩ “thoát khỏi cái tôi dày đặc tốităm, ta đã sáng suốt vươn tới cõi vô cùng bằng Tình Yêu, bằng Thơ, bằng Tin Tưởng”(Thiên chức). Và như vậy, có thể hiểu cái Ta ở đây chính là một cái Tôi, nhưng khôngphải là cái tôi cô độc, nhất thời, đối lập với thế giới, mà là một cái Tôi siêu việt, hiệnthân của tinh thần thế giới, cái tôi kết tinh trong mình sức mạnh của vĩnh viễn. Cái tôi ấyđóng vai trò như “người thấu thị”, kẻ tìm kiếm những mối liên hệ ẩn ngầm giữa thế giới,tìm ra ý nghĩa tồn tại của những sự vật, hiện tượng tồn tại rời rạc, tách biệt và bằng trựcgiác, linh giác để xoá đi những đường biên định mệnh giữa chúng, hay nói như Ch.Baudelaire, ông tổ trường phái Tượng trưng Pháp, để chúng cất lên những “màu sắc”,“hương thơm” và “thanh âm” tương ứng. Đây chính là sự mở rộng, đào sâu về khái niệmcái tôi trong Thơ mới. Đấy không còn là cái tôi cá nhân, cá thể, cái tôi thuần cảm xúccủa chủ nghĩa lãng mạn mà đã chuyển hoá thành quan niệm cái tôi “bề sâu, bề xa”, cáitôi tượng trưng, siêu thực. Các tác giả Xuân thu nhã tập hết sức đề cao yếu tố trực giác,tiềm thức, vô thức trong sáng tạo nghệ thuật. Theo họ, đấy là những “phương thức” hữuhiệu để phát hiện bản chất sự vật và lĩnh hội tinh thần thế giới. Quan niệm này chịu ảnhhưởng đậm nét của những triết thuyết hiện đại phương Tây, như triết học Shopenhauer,F. Nietzsche, H. Bergson, thuyết P ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: