Danh mục

Quản trị công ty trong thế giới phẳng

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 103.62 KB      Lượt xem: 20      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thomas Friedman mô tả những tình huống trong đó quá trình toàn cầu hoá dẫn đến thế giới phẳng. Thông qua hình ảnh này, ông cho rằng quá trình toàn cầu hoá đã loại bỏ những trở ngại đã ngăn cản doanh nghiệp và cá nhân cạnh tranh trên toàn cầu của ngày xưa. Sự cạnh tranh này cải thiện phúc lợi xã hội không chỉ bằng cách đảm bảo hàng hoá được sản xuất nhiều hơn với giá rẻ hơn mà còn giúp người tiêu dùng tiếp cận nhiều hàng hoá mới và chất lượng hơn. Sự thật thì...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quản trị công ty trong thế giới phẳng Quản trị công ty trong thế giới phẳngThomas Friedman mô tả những tình huống trong đó quá trình toàn cầu hoá dẫnđến thế giới phẳng. Thông qua hình ảnh này, ông cho rằng quá trình toàn cầu hoáđã loại bỏ những trở ngại đã ngăn cản doanh nghiệp và cá nhân cạnh tranh trêntoàn cầu của ngày xưa. Sự cạnh tranh này cải thiện phúc lợi xã hội không chỉ bằngcách đảm bảo hàng hoá được sản xuất nhiều hơn với giá rẻ hơn mà còn giúp ngườitiêu dùng tiếp cận nhiều hàng hoá mới và chất lượng hơn. Sự thật thì thế giới chưathực sự phẳng như mô tả của Friedman, tuy nhiên, khái niệm này giúp ta hiểuđược những động lực đang tác động thế giới của chúng ta.Một trong những thị trường được xem là phẳng hơn các thị trường khác đó là thịtrường tài chính. Các nhà kinh tế cho rằng suất thu lợi biên (marginal profit) từvốn ở từng quốc gia khác nhau, vốn sẽ tràn về nơi có lợi nhuận biên tế cao hơn.Hiện nay, những rào cản đã giảm dần, nhưng vốn cũng không chảy về các quốcgia đang cần như chúng ta nghĩ. Thực tế, trong những năm qua, nguồn vốn dườngnhư dồn về Hoa Kỳ và các nước phát triển hơn là dồn về các thị trường đang pháttriển.Cái gì là trở ngại làm cho thế giới tài chính phẳng lại quá nhiều núi non hiểm trởkhiến cho vốn không chảy về nơi nơi cần? Câu trả lời chính là quản trị công ty(QTCT) yếu kém đã nghẽn đường quốc gia đang phát triển tiếp cận lợi ích củatoàn cầu hoá. Khi QTCT yếu, doanh nghiệp được thị trường đánh giá thấp, vànăng lực huy động thêm vốn để tài trợ kế hoạch của doanh nhân đã bị hạn chế. Vìthế, ở các nước đang phát triển doanh nghiệp sẽ rất bé và khả năng tăng trưởngcũng yếu ớt.USD100 đầu tư ở Việt Nam có thể hiệu quả hơn đầu tư ở Hoa Kỳ, nhưng nhà đầutư lại không đem vào Việt Nam mà đem vào Hoa Kỳ đơn giản vì ở Hoa Kỳ họđược đảm bảo sinh lợi từ đầu tư cao hơn và an toàn hơn. QTCT yếu kém ngăn cảnnhà đầu tư nhận thành quả đầu tư của mình đầy đủ, bởi vì có người thứ ba đã lấymất quả ngọt trước khi nhà đầu tư nhận kết quả cuối cùng.QTCT có hai khía cạnh quốc gia và doanh nghiệp. Ở khía cạnh quốc gia bênngoài, các định chế ảnh hưởng đến cách nhà đầu tư nhận thành quả từ đầu tư.Quan trọng nhất là luật lệ quy định rõ quyền của nhà đầu tư và hiệu quả thực thicác điều luật này. Ở cấp độ doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp cam kết chính sáchcông khai minh bạch tốt, thì người bên trong khó lợi dụng nhà đầu tư. Chất lượngQTCT phụ thuộc vào cả 2 cấp độ, nghiên cứu cũng cho thấy ở các nước mà thịtrường tài chính yếu kém thì động lực đầu tư vào QTCT cũng hạn chế. Vì thếQTCT ở các nước đang phát triển và chuyển đổi thực sự yếu kém.Một đồng đầu tư sẽ xứng đáng khi thị trường vốn đánh giá cao doanh nghiệp, nếugiá trị của đồng tiền này thấp hơn (về mặt cơ hội) thì có nghĩa là ban quản trị củacông ty đang lãng phí số tiền này. Stulz (*) và cộng sự khảo sát cách thị trườngvốn đánh giá giá trị của tiền mặt ở 35 quốc gia từ năm 1988 đến 1998, với bìnhquân 6000 doanh nghiệp mỗi năm cho thấy nếu chúng ta chia các quốc gia theochỉ số tham nhũng, thì $1 có giá trị $0,91 ở các nước có tham nhũng ít, và có giá$0,31 ở những nước có nạn tham nhũng cao. QTCT yếu kém giải thích cho kếtquả này. Nghiên cứu cũng cho thấy cổ tức có giá trị cao hơn ở quốc gia thamnhũng nhiều so với quốc gia ít tham nhũng. Nói cách khác, nhà đầu tư đánh giácao số tiền đưa ra ngoài (cổ tức) vì họ nghi ngờ rằng tiền để lại trong doanh nghiệpsẽ bị lãng phí.Một câu hỏi tại sao QTCT ở các quốc gia khác nhau? Các nghiên cứu cho thấymột số giả thuyết, trong đó có tầm quan trọng của nguồn gốc thể chế luật pháp,đặc tính quốc gia, văn hoá, tôn giáo cũng giúp dự đoán quyền của cổ đông, quyềncủa chủ nợ, và thực thi quyền tư hữu. Ở cấp độ công ty, QTCT tốt giúp giảm giásử dụng vốn. Hơn nữa, khi thị trường tài chính chưa phát triển động lực cho cáccông ty và quốc gia đầu tư vào QTCT cũng bị hạn chế.Ở Hoa Kỳ, các công ty có cơ cấu sở hữu phân tán, nhưng ở một số quốc gia khác,quyền sở hữu tập trung vào một số cổ đông chi phối. Sự khác biệt về cơ cấu sởhữu dẫn đến cách quản trị công ty khác nhau. Nghiên cứu của Stulz cho thấy cơcấu sở hữu tập trung chủ yếu ở các quốc gia có tham nhũng cao. Lý do rất đơngiản, Ở các quốc gia có hệ thống minh bạch, mọi thứ giống nhau và công bằng,người bên trong sẽ đa dạng hoá tài sản của mình, bởi vậy sở hữu tập trung sẽ làgiải pháp tốn kém. Ở các nước có tham nhũng, người bên trong dễ dàng qua mặtcác cổ đông thiểu số khác. Đặc biệt là khi người bên trong chiếm cổ phần chi phốitrong doanh nghiệp, họ sẽ dành quyền lợi tốt nhất cho mình. Điều đó cũng đúngnếu việc qua mặt các cổ đông khác gây tổn thất cho người bên trong thì họ cũng làngười thiệt hại nhiều nhất. Hậu quả là ở các nước có hệ thống QTCT yếu kém,người bên trong thường hợp tác đầu tư với những cổ đông khác để chia sẻ bớt chiphí. Nhưng nguồn lực của người bên trong hạn chế vì thế doanh nghiệp thườngnhỏ và thiếu ổn định.Ng ...

Tài liệu được xem nhiều: