Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 189.96 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Nguyễn Văn Tuấn Qui định về cấp giấy phép dựa vào chiều cao đang làm dư luận công chúng xôn xao. Người ta thắc mắc tại sao người có chiều cao thấp hơn 145 cm, hoặc cân nặng dưới 40 kg, hoặc vòng ngực dưới 72 cm sẽ không được cấp giấy phép lái xe gắn máy trên 50 cc. Bằng chứng khoa học nào đã được sử dụng để đi đến những tiêu chuẩn trên đây? Theo một giới chức...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học Nguyễn Văn Tuấn Qui định về cấp giấy phép dựa vào chiều cao đang làm dư luận công chúng xôn xao. Người ta thắc mắc tại sao người có chiều cao thấp hơn 145 cm, hoặc cân nặng dưới 40 kg, hoặc vòng ngực dưới 72 cm sẽ không được cấp giấy phép lái xe gắn máy trên 50 cc. Bằng chứng khoa học nào đã được sử dụng để đi đến những tiêu chuẩn trên đây? Theo một giới chức thuộc Bộ Y tế (BYT) thì Bộ đã dựa vào dữ liệu khoa học để đi đến qui định mới, nhưng rất tiếc giới chức này không nói cụ thể những dữ liệu khoa học đó là gì và xuất phát từ đâu. Nhờ một bạn đọc, tôi đã tìm được tài liệu khoa học làm cơ sở cho qui định của BYT. Có thể xem qua tài liệu “Một số nội dung về tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ” ở đây. Đọc kĩ tài liệu này, tôi không thấy một dữ liệu cụ thể nào để có thể nói rằng qui định của BYT có cơ sở khoa học. Thật ra, chỉ có một đoạn văn có thể gọi l à mang chút số liệu khoa học mà thôi, vì phần còn lại chỉ nói chung chung. Đoạn văn đó cụ thể như sau: “Các tiêu chí này được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học là: Theo thông số kỹ thuật của một số xe mô tô 2 bánh có dung tích xi lanh từ trên 50 cm3 đến dưới 175cm3 , thì chiều cao yên xe trung bình từ 74 cm đến 76cm. Để đảm bảo an toàn giao thông, người điều khiển xe mô tô 2 bánh phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75cm. Mà để có chiều dài của chân từ 75cm trở lên thì người đó phải có chiều cao đứng trên 1m45.” Để hiểu đoạn văn trên, có lẽ cần phải có vài giải thích ngắn gọn về phương pháp đo lường chiều cao. Trong nhân trắc học, có 3 kích thước về chiều cao: chiều cao đứng (standing height), chiều cao ngồi (sitting height), và chiều dài của chân (leg length). Chiều cao đứng được tính từ mặt bằng đứng đến đỉnh của đầu. Khi nói tôi cao 1.7 m thì đây chính là chiều cao đứng. Chiều cao ngồi được đo từ mặt bằng ngồi đến đỉnh của đầu; đây là chiều cao thường sử dụng cho các nghiên cứu y khoa, đặc biệt là nghiên cứu liên quan đến hệ thống hô hấp. Chiều dài của chân thì đơn giản tính từ chiều dài từ mặt bằng khi ngồi đến gót chân. Thông thường chiều dài của chân được đo gián tiếp bằng cách lấy chiều cao đứng trừ cho chiều cao ngồi. Lí giải của BYT là như sau: bởi vì chiều cao trung bình của yên xe là 75 cm, cho nên người lái xe cần phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75 cm. Từ đó, BYT suy luận rằng một người phải có chiều cao đứng 145 cm thì mới có chiều dài chân bằng 75 cm. Do đó, BYT lấy chiều cao 145 cm làm chuẩn để cấp bằng lái xe. Xem qua tài liệu trên, chúng ta thấy thông số chính để làm tiêu chuẩn cấp bằng lái xe gắn máy là chiều dài của chân, chứ không phải chiều cao. Nhưng có lẽ vì ý thức được việc đo chiều dài của chân tương đối khó khăn (có ít nhất là 5 phương pháp đo và phương pháp nào cũng chưa hoàn hảo), nên BYT quyết định sử dụng chiều cao làm một marker thay cho chiều dài của chân với một giả định. Nhưng tôi e rằng lí giải này có vấn đề về giả định, và vấn đề khoa học. Vấn đề giả định Giả định của BYT có thể hiểu qua phát biểu “người điều khiển xe mô tô 2 bánh phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75cm. Mà để có chiều dài của chân từ 75cm trở lên thì người đó phải có chiều cao đứng trên 1m45”.Nói cách khác, giả định của BYT là tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là 0.517 (tức 75/145). Nói một cách ngắn gọn: giả định này không có cơ sở khoa học và cũng không đúng với thực tế. Trong một nghiên cứu dịch tễ học của chúng tôi ở 327 người Việt Nam tuổi từ 16 đến 65, tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là 0.460 với độ lệch chuẩn là 0.015. Tỉ số ngày cũng phù hợp với tỉ số ghi nhận ở người Trung Quốc và Nhật Bản (1,2) mà tôi tóm lược trong Bảng 1 dưới đây. Giới Trung bình Độ lệch chuẩn Nam 0.460 0.011 Nữ 0.459 0.014 Bảng 1. Tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao đứng. Nguồn: xem tài liệu tham khảo số 1 và 2. Như vậy, qua các dữ liệu khoa học này, chúng ta thấy tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là ~0.46, chứ không thể nào 0.517 như BYT đã sử dụng trong ước tính. Nói cách khác, có thể kết luận rằng giả định của BYT rất sai so với thực tế. Quay lại vấn đề: Nếu BYT thật sự yêu cầu người lái xe gắn máy trên 50 cc phải có chiều dài của chân là 75 cm trở lên, thì chiều cao tối thiểu để đạt tiêu chuẩn đó phải là 163 cm (tức 75 / 0.46). Cần nói thêm rằng 163 cm là tương đương với chiều cao của nam giới người Việt trong độ tuổi 16 đến 65. Chiều cao trung bình của phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi 16-65 là 153.4 cm. Nói cách khác, nếu theo tiêu chuẩn này (chiều cao 163 cm để có chiều dài của chân 75 cm), thì chỉ có khoảng 50% đàn ông và ~5% phụ nữ Việt Nam được phép lá ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học Nguyễn Văn Tuấn Qui định về cấp giấy phép dựa vào chiều cao đang làm dư luận công chúng xôn xao. Người ta thắc mắc tại sao người có chiều cao thấp hơn 145 cm, hoặc cân nặng dưới 40 kg, hoặc vòng ngực dưới 72 cm sẽ không được cấp giấy phép lái xe gắn máy trên 50 cc. Bằng chứng khoa học nào đã được sử dụng để đi đến những tiêu chuẩn trên đây? Theo một giới chức thuộc Bộ Y tế (BYT) thì Bộ đã dựa vào dữ liệu khoa học để đi đến qui định mới, nhưng rất tiếc giới chức này không nói cụ thể những dữ liệu khoa học đó là gì và xuất phát từ đâu. Nhờ một bạn đọc, tôi đã tìm được tài liệu khoa học làm cơ sở cho qui định của BYT. Có thể xem qua tài liệu “Một số nội dung về tiêu chuẩn sức khỏe người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ” ở đây. Đọc kĩ tài liệu này, tôi không thấy một dữ liệu cụ thể nào để có thể nói rằng qui định của BYT có cơ sở khoa học. Thật ra, chỉ có một đoạn văn có thể gọi l à mang chút số liệu khoa học mà thôi, vì phần còn lại chỉ nói chung chung. Đoạn văn đó cụ thể như sau: “Các tiêu chí này được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học là: Theo thông số kỹ thuật của một số xe mô tô 2 bánh có dung tích xi lanh từ trên 50 cm3 đến dưới 175cm3 , thì chiều cao yên xe trung bình từ 74 cm đến 76cm. Để đảm bảo an toàn giao thông, người điều khiển xe mô tô 2 bánh phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75cm. Mà để có chiều dài của chân từ 75cm trở lên thì người đó phải có chiều cao đứng trên 1m45.” Để hiểu đoạn văn trên, có lẽ cần phải có vài giải thích ngắn gọn về phương pháp đo lường chiều cao. Trong nhân trắc học, có 3 kích thước về chiều cao: chiều cao đứng (standing height), chiều cao ngồi (sitting height), và chiều dài của chân (leg length). Chiều cao đứng được tính từ mặt bằng đứng đến đỉnh của đầu. Khi nói tôi cao 1.7 m thì đây chính là chiều cao đứng. Chiều cao ngồi được đo từ mặt bằng ngồi đến đỉnh của đầu; đây là chiều cao thường sử dụng cho các nghiên cứu y khoa, đặc biệt là nghiên cứu liên quan đến hệ thống hô hấp. Chiều dài của chân thì đơn giản tính từ chiều dài từ mặt bằng khi ngồi đến gót chân. Thông thường chiều dài của chân được đo gián tiếp bằng cách lấy chiều cao đứng trừ cho chiều cao ngồi. Lí giải của BYT là như sau: bởi vì chiều cao trung bình của yên xe là 75 cm, cho nên người lái xe cần phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75 cm. Từ đó, BYT suy luận rằng một người phải có chiều cao đứng 145 cm thì mới có chiều dài chân bằng 75 cm. Do đó, BYT lấy chiều cao 145 cm làm chuẩn để cấp bằng lái xe. Xem qua tài liệu trên, chúng ta thấy thông số chính để làm tiêu chuẩn cấp bằng lái xe gắn máy là chiều dài của chân, chứ không phải chiều cao. Nhưng có lẽ vì ý thức được việc đo chiều dài của chân tương đối khó khăn (có ít nhất là 5 phương pháp đo và phương pháp nào cũng chưa hoàn hảo), nên BYT quyết định sử dụng chiều cao làm một marker thay cho chiều dài của chân với một giả định. Nhưng tôi e rằng lí giải này có vấn đề về giả định, và vấn đề khoa học. Vấn đề giả định Giả định của BYT có thể hiểu qua phát biểu “người điều khiển xe mô tô 2 bánh phải có chiều dài của chân tối thiểu là 75cm. Mà để có chiều dài của chân từ 75cm trở lên thì người đó phải có chiều cao đứng trên 1m45”.Nói cách khác, giả định của BYT là tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là 0.517 (tức 75/145). Nói một cách ngắn gọn: giả định này không có cơ sở khoa học và cũng không đúng với thực tế. Trong một nghiên cứu dịch tễ học của chúng tôi ở 327 người Việt Nam tuổi từ 16 đến 65, tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là 0.460 với độ lệch chuẩn là 0.015. Tỉ số ngày cũng phù hợp với tỉ số ghi nhận ở người Trung Quốc và Nhật Bản (1,2) mà tôi tóm lược trong Bảng 1 dưới đây. Giới Trung bình Độ lệch chuẩn Nam 0.460 0.011 Nữ 0.459 0.014 Bảng 1. Tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao đứng. Nguồn: xem tài liệu tham khảo số 1 và 2. Như vậy, qua các dữ liệu khoa học này, chúng ta thấy tỉ số chiều dài của chân trên chiều cao là ~0.46, chứ không thể nào 0.517 như BYT đã sử dụng trong ước tính. Nói cách khác, có thể kết luận rằng giả định của BYT rất sai so với thực tế. Quay lại vấn đề: Nếu BYT thật sự yêu cầu người lái xe gắn máy trên 50 cc phải có chiều dài của chân là 75 cm trở lên, thì chiều cao tối thiểu để đạt tiêu chuẩn đó phải là 163 cm (tức 75 / 0.46). Cần nói thêm rằng 163 cm là tương đương với chiều cao của nam giới người Việt trong độ tuổi 16 đến 65. Chiều cao trung bình của phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi 16-65 là 153.4 cm. Nói cách khác, nếu theo tiêu chuẩn này (chiều cao 163 cm để có chiều dài của chân 75 cm), thì chỉ có khoảng 50% đàn ông và ~5% phụ nữ Việt Nam được phép lá ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Giấy phép lái xe Thành tựu khoa học nghiên cứu khoa học Nghiên cứu y khoa thành tựu y họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Kỹ năng quản lý thời gian của sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội
80 trang 1552 4 0 -
Tiểu luận: Phương pháp Nghiên cứu Khoa học trong kinh doanh
27 trang 492 0 0 -
57 trang 339 0 0
-
33 trang 332 0 0
-
Tiểu luận môn Phương Pháp Nghiên Cứu Khoa Học Thiên văn vô tuyến
105 trang 270 0 0 -
95 trang 269 1 0
-
Phương pháp nghiên cứu trong kinh doanh
82 trang 267 0 0 -
3 trang 241 0 0
-
29 trang 227 0 0
-
Tóm tắt luận án tiến sỹ Một số vấn đề tối ưu hóa và nâng cao hiệu quả trong xử lý thông tin hình ảnh
28 trang 221 0 0