Danh mục

Quy định về bỏ phiếu tín nhiệm: từ mong muốn đến hiện thực

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 203.94 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và các đại biểu Quốc hội tại lễ khai mạc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIIGần 10 năm qua, kể từ ngày quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được...Gần 10 năm qua, kể từ ngày quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được bổ sung vào điểm 7 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhưng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quy định về bỏ phiếu tín nhiệm: từ mong muốn đến hiện thực Khoa học pháp lýQuy định về bỏ phiếu tín nhiệm: từ mong muốn đến hiện thựcCác đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước và các đại biểu Quốchội tại lễ khai mạc kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIIGần 10 năm qua, kể từ ngày quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốchội đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặcphê chuẩn được...Gần 10 năm qua, kể từ ngày quyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốchội đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặcphê chuẩn được bổ sung vào điểm 7 Điều 84 của Hiến pháp năm1992, nhưng đến nay, Quốc hội vẫn chưa thực hiện được quyềnhiến định này. Bên cạnh đó, Quốc hội đã áp dụng một hình thứcmiễn nhiệm đối với cả ba trường hợp: một người được thôi giữchức vụ này để giữ một chức vụ khác cao hơn; người thôi giữmột chức vụ đã kiêm nhiệm nhưng vẫn giữ chức vụ cao hơn; vàngười không được Quốc hội tín nhiệm giao giữ chức vụ đó nữa vìđã có sai lầm, khuyết điểm, cũng đang là một bất hợp lý. Bài viếttập trung phân tích những bất cập của pháp luật về bỏ phiếu tínnhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầuhoặc phê chuẩn.Trong Nghị quyết số 51/2001-QH10 ngày 25/12/2001 của Quốchội khoá X, kỳ họp thứ 10 về sửa đổi, bổ sung một số điều củaHiến pháp năm 1992 có điểm được nhiều người quan tâm và nhấttrí cao là “Bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chứcvụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn” (Bổ sung vào điểm 7 Điều84 của Hiến pháp năm 1992). Trước hết phải khẳng định rằng, bỏphiếu tín nhiệm là phương thức để Quốc hội thực hiện quyềnmiễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốchội bầu hoặc phê chuẩn khi người đó không xứng đáng với trọngtrách được giao, đồng thời cũng là quyền của Quốc hội khi xemxét kết quả giám sát được quy định tại Điều 14 Luật Hoạt độnggiám sát của Quốc hội.Ở nước ta, quy định về việc Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm khôngphải là điều mới lạ vì trước đây trong Hiến pháp năm 1946 - BảnHiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta - đã có Điều thứ 39 và Điềuthứ 54 quy định khá chi tiết và cụ thể về đối tượng trình tự, thủtục để Quốc hội thực hiện quyền này. Song, những quy định trênđây trong Hiến pháp năm 1946 không được kế thừa và phát huytrong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 trước khi đượcsửa đổi, bổ sung một số điều vào cuối năm 2001. Cũng xin lưu ýrằng, hiến pháp của nhiều nước đã quy định khá chi tiết và cụ thểvề bỏ phiếu không tín nhiệm (1) chứ không quy định bằng mộtcâu chung, gọn trong hiến pháp rồi sau đó quy định chi tiết, cụthể trong luật như ở nước ta. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy, trìnhtự, thủ tục và cách tiến hành việc bỏ phiếu tín nhiệm được quyđịnh trong Luật tổ chức Quốc hội năm 2002 (các Điều 2, 12, 21,30, 88 và Điều 89); trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội(các Điều 13, 26, 34 và Điều 44); trong Quy chế hoạt động củaUỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số26/2004/QH11, ngày 15/6/2004, (các Điều 27, 32 và Điều 52) vàtrong Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ bancủa Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 27/2004/QH11,ngày 15/6/2004 (Điều 33). Như vậy, xét về căn cứ pháp lý thìthấy đã đầy đủ nhưng tại sao trong gần 10 năm qua, kể từ ngàyquyền bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với những người giữcác chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được bổ sung vàođiểm 7 Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, mà Quốc hội chưa thựchiện quyền này? Có phải trong gần 10 năm ấy, trong số nhữngngười được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn giữ các chức vụ ở nướcta không ai “có hành vi vi phạm pháp luật hoặc không thực hiệnđúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao, gây thiệt hạinghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợppháp của tổ chức và cá nhân” như Điều 33 Quy chế hoạt độngcủa Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban quy định? Có thể khẳngđịnh rằng, không phải như vậy. Bởi vì:Thứ nhất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006),Đảng ta đã nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảngviên, kể cả cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất vànăng lực, thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm,đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảmsút lòng tin, phai nhạt lý tưởng. Một số ít có biểu hiện bất mãn,mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng,vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạmpháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong bộphận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng. Vẫn còn tìnhtrạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”(2). Trước tình hình đó, đã có “gần 4 vạn đảng viên bị kỷ luậttrong một nhiệm kỳ đại hội, trong đó số cán bộ do Ban chấp hànhTrung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kỷ luật là 114 cán bộ, có12 Uỷ viên Trung ương Đảng” (3);Thứ hai, tại diễn đàn của Quốc hội đã có vị đại biểu Quốc hội đặtvấn đề Quốc hội xem xét, ra Nghị quyết - mà thực chất là bỏphiếu tín nhiệm - sau khi một vị Bộ trưởng, ông Chánh án ...

Tài liệu được xem nhiều: