Quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp và phương pháp quy hoạch đô thị tại Việt Nam
Số trang: 11
Loại file: pdf
Dung lượng: 571.04 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết "Quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp và phương pháp quy hoạch đô thị tại Việt Nam" trình bày các nội dung về quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp – cách tiếp cận về thương lượng/hòa giải, quy hoạch đô thị tại Việt Nam. Mời bạn tham khảo
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp và phương pháp quy hoạch đô thị tại Việt Nam Quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp và quy hoạch đô thị tại Việt Nam1 Ths.KTS Nguyễn Mai Anh – Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM Quy hoạch tại Việt Nam đối mặt với vấn đề quy hoạch treo trong hàng chục năm qua. Một cuộc điều tra xã hội học do Văn phòng Quốc hội thực hiện năm 2006 cho thấy có tới 69.5% cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực quản lý đất đai khẳng định tại địa phương có tồn tại tình trạng “quy hoạch treo” và những người sống ở khu vực đô thị (64.6%) cho rằng còn tồn tại tình trạng quy hoạch treo nhiều hơn những người sống ở khu vực nông thôn (59.2%) (Văn phòng quốc hội, 2006, tr.21). Tại sao vấn đề quy hoạch treo vẫn cứ tiếp diễn trong nhiều thập kỷ? Một phần câu trả lời xuất phát từ lý thuyết quy hoạch đang áp dụng tại Việt Nam. Trước hết cần hiểu lý thuyết về quy hoạch hợp lý đã áp dụng cho đến ngày hôm nay tại Việt Nam. Quy hoạch hợp lý Quy hoạch hợp lý (rational planning) hoặc quy hoạch tổng thể hợp lý (rational comprehensive planning) là phương pháp quy hoạch sử dụng phổ biến vào thập kỷ 50 và 60 thế kỷ trước. Với cách tiếp cận này, quy hoạch là một khoa học, kỹ thuật phân tích (Mohammadi, 2010, tr.19), hay một phương pháp mang tính kỹ thuật về sự can thiệp đô thị (Pissourios, 2014, tr.84). Dựa trên các đặc tính của khoa học cổ điển, Mäntysalo (2005) giải thích tính khoa học của quy hoạch hợp lý như sau: Quan điểm khoa học cổ điển thường được mô tả bằng khái niệm 'đồng hồ': thế giới được xem là một chiếc đồng hồ phức tạp với bộ sưu tập vô hạn các bánh xe, ốc vít, lò xo, và các tương tác lẫn nhau - do đó, thế giới dự đoán được như đồng hồ. Tính không thể đoán trước được chỉ là do bạn chưa bao giờ có được thông tin đầy đủ về cơ chế của nó. Bài học rút ra trong quy hoạch hợp lý là thông qua các phân tích sâu sắc, bạn có thể dự đoán sự phát triển lâu dài của các thị xã và thành phố, và do đó lập kế hoạch tổng thể dài hạn với độ chính xác cao để định hướng sự phát triển này. Theo khoa học cổ điển, trọng tâm trong phân tích quy hoạch là về các yếu tố định lượng, chẳng hạn như thay đổi dân số và tỷ lệ nhóm tuổi, số lượng giao thông đường bộ, quy mô và khoảng cách của các dịch vụ công liên quan đến cơ sở người sử dụng, năng lực kỹ thuật của hệ thống cơ sở hạ tầng, bố cục các khối căn hộ theo hướng ánh sáng mặt trời (gió) ... Các yếu tố được phân tích riêng: tương tự đồng hồ, cộng đồng đô thị được coi là cơ chế của các yếu tố tương tác khác nhau. Hội nghị Athens CIAM năm 1933 đã xác định được 'chức năng' của thành phố là 'nhà ở', 'công nghiệp', 'cây xanh' và 'giao 1 Bài báo đăng trên tạp chí Quy hoạch đô thị số 33, 2018. 1 thông'. Các khu vực công nghiệp gây ô nhiễm được tách ra khỏi khu vực nhà ở bằng các vành đai xanh, và các trục giao thông chính kết nối các khu vực này với nhau (Mäntysalo, 2005, tr.2). Taylor (1998) mô tả các bước tiến hành theo phương pháp quy hoạch hợp lý như một quá trình các hành động hợp lý (Taylor, 1998, tr.68), và nó rất giống với cách lập quy hoạch hiện nay tại Việt Nam: 1. Trước tiên phải có một số vấn đề hoặc mục tiêu nhắc nhở sự cần thiết cho một kế hoạch hành động. Từ phân tích về điều này, sẽ có một định nghĩa về các vấn đề hoặc mục tiêu. Phân tích này là cần thiết vì khi tiếp cận gần hơn, nhận thức ban đầu về vấn đề và/hoặc mục tiêu có thể bị nghi ngờ. Có thể vấn đề không thực sự là vấn đề gì cả, hoặc vấn đề đối với một nhóm có thể không phải là đối với một nhóm khác, hoặc có những vấn đề bổ sung mà trước đây không nhận thấy. 2. Giai đoạn thứ hai là xem xét liệu có cách giải quyết vấn đề (hoặc mục tiêu), nếu có, cần làm rõ những cách giải quyết này. 3. Giai đoạn thứ ba là đánh giá những lựa chọn khả thi nào có thể đạt được mục tiêu mong muốn. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đang tiếp tục thực hiện các đánh giá như vậy khi xem xét tốt nhất để làm gì, và chúng ta thường làm điều này một cách trực giác. Tuy nhiên, trong các tình huống đưa ra quyết định phức tạp, có thể yêu cầu phân tích hệ thống hơn về hậu quả có thể xảy khi thực hiện bất kỳ sự lựa chọn nào. Giai đoạn này cần các kỹ thuật phức tạp như phân tích chi phí - lợi ích để đánh giá các lựa chọn thay thế, và cần có một khối lượng tài liệu lớn liên quan. 4. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn thực hiện quy hoạch. Như vậy quá trình quy hoạch không chỉ dừng lại khi đã có quyết định phê duyệt. Chính xác hơn quá trình lập quy hoạch hợp lý được mô tả như một lý thuyết hoặc một mô hình của hành động hợp lý, chứ không phải là chỉ 'ra quyết định'. 5. Giai đoạn thứ năm, giám sát các tác động của quy hoạch để xem liệu có đạt được mục đích mong muốn hay không. Quy trình quy hoạch hợp lý là liên tục. Hiếm khi các mục tiêu đạt được một cách hoàn hảo và thậm chí xuất hiện các mục tiêu khác hoặc các vấn đề khác. Lưu ý phản hồi có thể trở lại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình. 2 Quy trình trên đây không chỉ áp dụng khi lập quy hoạch mà còn áp dụng khi cần đưa ra chính sách mới. Mäntysalo (2005) cho rằng mục tiêu của quy hoạch hợp lý là vì lợi ích chung (public interest) và quy hoạch được lập bằng phương pháp khoa học, vì vậy không cần sự tham gia. Công việc quy hoạch dành cho chuyên gia quy hoạch, những người nghĩ rằng họ biết những gì tốt cho cộng đồng (Mäntysalo, 2005, tr.3). Bên cạnh đó, quy hoạch hợp lý chú trọng đến phương án quy hoạch tốt nhất để ra quyết định phê duyệt, và bỏ qua các nội dung liên quan đến câu hỏi quy hoạch được thực ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp và phương pháp quy hoạch đô thị tại Việt Nam Quy hoạch hợp lý, quy hoạch giao tiếp và quy hoạch đô thị tại Việt Nam1 Ths.KTS Nguyễn Mai Anh – Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM Quy hoạch tại Việt Nam đối mặt với vấn đề quy hoạch treo trong hàng chục năm qua. Một cuộc điều tra xã hội học do Văn phòng Quốc hội thực hiện năm 2006 cho thấy có tới 69.5% cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực quản lý đất đai khẳng định tại địa phương có tồn tại tình trạng “quy hoạch treo” và những người sống ở khu vực đô thị (64.6%) cho rằng còn tồn tại tình trạng quy hoạch treo nhiều hơn những người sống ở khu vực nông thôn (59.2%) (Văn phòng quốc hội, 2006, tr.21). Tại sao vấn đề quy hoạch treo vẫn cứ tiếp diễn trong nhiều thập kỷ? Một phần câu trả lời xuất phát từ lý thuyết quy hoạch đang áp dụng tại Việt Nam. Trước hết cần hiểu lý thuyết về quy hoạch hợp lý đã áp dụng cho đến ngày hôm nay tại Việt Nam. Quy hoạch hợp lý Quy hoạch hợp lý (rational planning) hoặc quy hoạch tổng thể hợp lý (rational comprehensive planning) là phương pháp quy hoạch sử dụng phổ biến vào thập kỷ 50 và 60 thế kỷ trước. Với cách tiếp cận này, quy hoạch là một khoa học, kỹ thuật phân tích (Mohammadi, 2010, tr.19), hay một phương pháp mang tính kỹ thuật về sự can thiệp đô thị (Pissourios, 2014, tr.84). Dựa trên các đặc tính của khoa học cổ điển, Mäntysalo (2005) giải thích tính khoa học của quy hoạch hợp lý như sau: Quan điểm khoa học cổ điển thường được mô tả bằng khái niệm 'đồng hồ': thế giới được xem là một chiếc đồng hồ phức tạp với bộ sưu tập vô hạn các bánh xe, ốc vít, lò xo, và các tương tác lẫn nhau - do đó, thế giới dự đoán được như đồng hồ. Tính không thể đoán trước được chỉ là do bạn chưa bao giờ có được thông tin đầy đủ về cơ chế của nó. Bài học rút ra trong quy hoạch hợp lý là thông qua các phân tích sâu sắc, bạn có thể dự đoán sự phát triển lâu dài của các thị xã và thành phố, và do đó lập kế hoạch tổng thể dài hạn với độ chính xác cao để định hướng sự phát triển này. Theo khoa học cổ điển, trọng tâm trong phân tích quy hoạch là về các yếu tố định lượng, chẳng hạn như thay đổi dân số và tỷ lệ nhóm tuổi, số lượng giao thông đường bộ, quy mô và khoảng cách của các dịch vụ công liên quan đến cơ sở người sử dụng, năng lực kỹ thuật của hệ thống cơ sở hạ tầng, bố cục các khối căn hộ theo hướng ánh sáng mặt trời (gió) ... Các yếu tố được phân tích riêng: tương tự đồng hồ, cộng đồng đô thị được coi là cơ chế của các yếu tố tương tác khác nhau. Hội nghị Athens CIAM năm 1933 đã xác định được 'chức năng' của thành phố là 'nhà ở', 'công nghiệp', 'cây xanh' và 'giao 1 Bài báo đăng trên tạp chí Quy hoạch đô thị số 33, 2018. 1 thông'. Các khu vực công nghiệp gây ô nhiễm được tách ra khỏi khu vực nhà ở bằng các vành đai xanh, và các trục giao thông chính kết nối các khu vực này với nhau (Mäntysalo, 2005, tr.2). Taylor (1998) mô tả các bước tiến hành theo phương pháp quy hoạch hợp lý như một quá trình các hành động hợp lý (Taylor, 1998, tr.68), và nó rất giống với cách lập quy hoạch hiện nay tại Việt Nam: 1. Trước tiên phải có một số vấn đề hoặc mục tiêu nhắc nhở sự cần thiết cho một kế hoạch hành động. Từ phân tích về điều này, sẽ có một định nghĩa về các vấn đề hoặc mục tiêu. Phân tích này là cần thiết vì khi tiếp cận gần hơn, nhận thức ban đầu về vấn đề và/hoặc mục tiêu có thể bị nghi ngờ. Có thể vấn đề không thực sự là vấn đề gì cả, hoặc vấn đề đối với một nhóm có thể không phải là đối với một nhóm khác, hoặc có những vấn đề bổ sung mà trước đây không nhận thấy. 2. Giai đoạn thứ hai là xem xét liệu có cách giải quyết vấn đề (hoặc mục tiêu), nếu có, cần làm rõ những cách giải quyết này. 3. Giai đoạn thứ ba là đánh giá những lựa chọn khả thi nào có thể đạt được mục tiêu mong muốn. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta đang tiếp tục thực hiện các đánh giá như vậy khi xem xét tốt nhất để làm gì, và chúng ta thường làm điều này một cách trực giác. Tuy nhiên, trong các tình huống đưa ra quyết định phức tạp, có thể yêu cầu phân tích hệ thống hơn về hậu quả có thể xảy khi thực hiện bất kỳ sự lựa chọn nào. Giai đoạn này cần các kỹ thuật phức tạp như phân tích chi phí - lợi ích để đánh giá các lựa chọn thay thế, và cần có một khối lượng tài liệu lớn liên quan. 4. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn thực hiện quy hoạch. Như vậy quá trình quy hoạch không chỉ dừng lại khi đã có quyết định phê duyệt. Chính xác hơn quá trình lập quy hoạch hợp lý được mô tả như một lý thuyết hoặc một mô hình của hành động hợp lý, chứ không phải là chỉ 'ra quyết định'. 5. Giai đoạn thứ năm, giám sát các tác động của quy hoạch để xem liệu có đạt được mục đích mong muốn hay không. Quy trình quy hoạch hợp lý là liên tục. Hiếm khi các mục tiêu đạt được một cách hoàn hảo và thậm chí xuất hiện các mục tiêu khác hoặc các vấn đề khác. Lưu ý phản hồi có thể trở lại bất kỳ giai đoạn nào của quá trình. 2 Quy trình trên đây không chỉ áp dụng khi lập quy hoạch mà còn áp dụng khi cần đưa ra chính sách mới. Mäntysalo (2005) cho rằng mục tiêu của quy hoạch hợp lý là vì lợi ích chung (public interest) và quy hoạch được lập bằng phương pháp khoa học, vì vậy không cần sự tham gia. Công việc quy hoạch dành cho chuyên gia quy hoạch, những người nghĩ rằng họ biết những gì tốt cho cộng đồng (Mäntysalo, 2005, tr.3). Bên cạnh đó, quy hoạch hợp lý chú trọng đến phương án quy hoạch tốt nhất để ra quyết định phê duyệt, và bỏ qua các nội dung liên quan đến câu hỏi quy hoạch được thực ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Quy hoạch hợp lý Quy hoạch giao tiếp Quy hoạch đô thị Quy hoạch tổng thể hợp lý Quản lý đất đaiGợi ý tài liệu liên quan:
-
Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về quản lý đầu tư phát triển đô thị
32 trang 379 0 0 -
Chỉ số chống chịu của các đô thị Việt Nam – Báo cáo chứng minh khái niệm
113 trang 252 0 0 -
TTIỂU LUẬN ' CƠ SỞ QUY HOẠCH VÀ KIẾN TRÚC'
43 trang 159 0 0 -
19 trang 139 0 0
-
Thuyết minh đồ án tốt nghiệp: Khu vui chơi sáng tạo thiếu nhi Hải Phòng
16 trang 138 1 0 -
Bài tập lịch sử đô thị: Đô thị Paris – Pháp thời trung đại
43 trang 114 0 0 -
Nghị quyết số 16/2012/NQ-HĐND
4 trang 111 0 0 -
36 trang 110 0 0
-
11 trang 108 0 0
-
Bài tập lịch sử đô thị: Đô Thị Brugge – Bỉ
10 trang 107 0 0