![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Rau má chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 229.46 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Rau má tên khoa học là Centella asiatica (L.) Urb., thuộc họ hoa tán (Apiaceae). Cây thảo sống nhiều năm, mọc sát mặt đất và có lá tròn như gò má của con người, do đó mà có tên của cây.Phân bố và sinh thái:Rau má phân bố ở nhiều nơi trên thế giới. Ở nước ta, nó mọc hoang khắp nơi, thường gặp ở các bãi cỏ, bờ ruộng, ven suối, quanh các làng bản.Chế biến làm thực phẩm: Rau má đã được nghiên cứu nhiều ở nước ta và cả trên thế giới, vì những đặc tính...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Rau má chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt Rau má chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt Rau má tên khoa học là Centella asiatica (L.) Urb., thuộc họ hoa tán(Apiaceae). Cây thảo sống nhiều năm, mọc sát mặt đất và có lá tròn như gòmá của con người, do đó mà có tên của cây. Phân bố và sinh thái: Rau má phân bố ở nhiều nơi trên thế giới. Ở nước ta, nó mọc hoang khắpnơi, thường gặp ở các bãi cỏ, bờ ruộng, ven suối, quanh các làng bản. Chế biến làm thực phẩm: Rau má đã được nghiên cứu nhiều ở nước ta và cả trên thế giới, vì nhữngđặc tính quý giá của nó. Tại nước ta, rau má được sử dụng rất phổ biến. Nó thườngđược coi là rau chống đói và loại rau lành. Nhân dân ta thường dùng rau má để ăn sống, muối dưa, luộc chín hoặc nấucanh ăn. Rau má có thể dùng nấu canh với thịt nạc hoặc tép hay cá lóc. Người ta đãphân tích thành phần hóa học của rau má, tính theo g%: nước 88,2, protid 3,2,glucid 1,8, cellulose 4,5; theo mg%: calcium 229, phosphor 2, sắt 3,1, β - caroten1.300, vitamin B1 0,15 và vitamin C 37. Sử dụng làm thuốc: Rau má cũng là một vị thuốc thông dụng. Nó có vị ngọt tính mát, có tácdụng chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt và lợi tiểu. Thường được chỉ địnhdùng trị: đau gan mật, bệnh sởi; sổ mũi, viêm hạnh nhân, đau họng, viêm khíquản; bệnh đường tiết niệu và sởi; ngộ độc lá ngón, nấm độc, thạch tín (arsenic).Dùng ngoài trị rắn cắn, mụn nhọt, ngứa lở và vết thương. Rau má xay nhuyễn vắt lấy nước cốt, pha với nước dừa xiêm là một thứnước giải khát rất bổ. Ở các thành phố và các thị xã, thị trấn, người ta thường sửdụng nước rau má dưới dạng nước sinh tố như các thứ quả cây. Nhân dân tathường dùng rau má trong các trường hợp: - Giải nhiệt, làm xuất được chứng nóng nảy bứt rứt trong người, trị trẻ emnóng sốt dữ dội, lên kinh phong (trong uống, ngoài xoa), chữa ngứa lở mụn nhọt,làm cho đỡ sưng, đỡ đau (uống trong, đắp ngoài). - Giải độc, do ăn nhầm phải lá ngón, nấm độc, thạch tín hoặc do say khoaimì, dùng 250 g rau má và rễ rau muống biển 250 g, giã nát, hòa nước sôi uống. - Cầm máu như chảy máu chân răng, chảy máu cam, thổ huyết, đi tiểu ramáu, đi ngoài ra máu vì bệnh kiết lỵ, phụ nữ bị băng huyết. Thường dùng rau má30 g, cỏ nhọ nồi và lá trắc bá, mỗi vị 15 g, sao, sắc nước uống. - Trị lỵ cấp tính: Dùng một nắm rau tươi rửa sạch thêm ít hạt muối, nhai kỹnuốt nước hoặc có thể giã nát vắt nước cho uống. - Trị ho, giã cây tươi lấy nước dịch uống hoặc sắc nước uống. - Trị khí hư bạch đới, đàn bà, con gái đau bụng kinh, dùng rau má phơi khôlàm thành bột uống, mỗi sáng dùng 2 muỗng cà phê bột. - Viêm hạnh nhân, dùng rau má tươi, giã nát nhuyễn lấy nước cốt, hòa ítgiấm, nuốt từ từ. - Trị đái buốt, đái dắt, dùng rau má tươi giã nhuyễn, lấy nước cốt uống. - Làm thuốc lợi sữa, có thể ăn tươi hoặc luộc ăn, nếu luộc thì phải dùng cảnước luộc mới có tác dụng. Có người dùng cho bò sữa ăn để cho bò thêm sữa. Người ta đã chế rau má thành những dạng thuốc làm vết thương mau lànhda, liền sẹo… để chữa các vết thương phần mềm. Tuy nhiên, đối với những người tỳ vị hư hàn, thường đi đại tiện lỏng thìkhông nên dùng nhiều vì rau má có tính mát lạnh.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Rau má chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt Rau má chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt Rau má tên khoa học là Centella asiatica (L.) Urb., thuộc họ hoa tán(Apiaceae). Cây thảo sống nhiều năm, mọc sát mặt đất và có lá tròn như gòmá của con người, do đó mà có tên của cây. Phân bố và sinh thái: Rau má phân bố ở nhiều nơi trên thế giới. Ở nước ta, nó mọc hoang khắpnơi, thường gặp ở các bãi cỏ, bờ ruộng, ven suối, quanh các làng bản. Chế biến làm thực phẩm: Rau má đã được nghiên cứu nhiều ở nước ta và cả trên thế giới, vì nhữngđặc tính quý giá của nó. Tại nước ta, rau má được sử dụng rất phổ biến. Nó thườngđược coi là rau chống đói và loại rau lành. Nhân dân ta thường dùng rau má để ăn sống, muối dưa, luộc chín hoặc nấucanh ăn. Rau má có thể dùng nấu canh với thịt nạc hoặc tép hay cá lóc. Người ta đãphân tích thành phần hóa học của rau má, tính theo g%: nước 88,2, protid 3,2,glucid 1,8, cellulose 4,5; theo mg%: calcium 229, phosphor 2, sắt 3,1, β - caroten1.300, vitamin B1 0,15 và vitamin C 37. Sử dụng làm thuốc: Rau má cũng là một vị thuốc thông dụng. Nó có vị ngọt tính mát, có tácdụng chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt và lợi tiểu. Thường được chỉ địnhdùng trị: đau gan mật, bệnh sởi; sổ mũi, viêm hạnh nhân, đau họng, viêm khíquản; bệnh đường tiết niệu và sởi; ngộ độc lá ngón, nấm độc, thạch tín (arsenic).Dùng ngoài trị rắn cắn, mụn nhọt, ngứa lở và vết thương. Rau má xay nhuyễn vắt lấy nước cốt, pha với nước dừa xiêm là một thứnước giải khát rất bổ. Ở các thành phố và các thị xã, thị trấn, người ta thường sửdụng nước rau má dưới dạng nước sinh tố như các thứ quả cây. Nhân dân tathường dùng rau má trong các trường hợp: - Giải nhiệt, làm xuất được chứng nóng nảy bứt rứt trong người, trị trẻ emnóng sốt dữ dội, lên kinh phong (trong uống, ngoài xoa), chữa ngứa lở mụn nhọt,làm cho đỡ sưng, đỡ đau (uống trong, đắp ngoài). - Giải độc, do ăn nhầm phải lá ngón, nấm độc, thạch tín hoặc do say khoaimì, dùng 250 g rau má và rễ rau muống biển 250 g, giã nát, hòa nước sôi uống. - Cầm máu như chảy máu chân răng, chảy máu cam, thổ huyết, đi tiểu ramáu, đi ngoài ra máu vì bệnh kiết lỵ, phụ nữ bị băng huyết. Thường dùng rau má30 g, cỏ nhọ nồi và lá trắc bá, mỗi vị 15 g, sao, sắc nước uống. - Trị lỵ cấp tính: Dùng một nắm rau tươi rửa sạch thêm ít hạt muối, nhai kỹnuốt nước hoặc có thể giã nát vắt nước cho uống. - Trị ho, giã cây tươi lấy nước dịch uống hoặc sắc nước uống. - Trị khí hư bạch đới, đàn bà, con gái đau bụng kinh, dùng rau má phơi khôlàm thành bột uống, mỗi sáng dùng 2 muỗng cà phê bột. - Viêm hạnh nhân, dùng rau má tươi, giã nát nhuyễn lấy nước cốt, hòa ítgiấm, nuốt từ từ. - Trị đái buốt, đái dắt, dùng rau má tươi giã nhuyễn, lấy nước cốt uống. - Làm thuốc lợi sữa, có thể ăn tươi hoặc luộc ăn, nếu luộc thì phải dùng cảnước luộc mới có tác dụng. Có người dùng cho bò sữa ăn để cho bò thêm sữa. Người ta đã chế rau má thành những dạng thuốc làm vết thương mau lànhda, liền sẹo… để chữa các vết thương phần mềm. Tuy nhiên, đối với những người tỳ vị hư hàn, thường đi đại tiện lỏng thìkhông nên dùng nhiều vì rau má có tính mát lạnh.
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
y học cơ sở cách chăm sóc sức khỏe bệnh thường gặp cách phòng và trị bệnh Rau má chống nhiễm trùngTài liệu liên quan:
-
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 237 0 0 -
7 trang 200 0 0
-
Báo cáo: Khảo sát đặc điểm tăng huyết áp ở người có tuổi tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định
9 trang 196 0 0 -
Một số Bệnh Lý Thần Kinh Thường Gặp
7 trang 179 0 0 -
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 175 0 0 -
Hoa cảnh chữa viêm gan, quai bị
5 trang 152 0 0 -
Ưu điểm và nhược điểm thuốc đái tháo đường
5 trang 114 0 0 -
Một số lưu ý cho bệnh nhân Đái tháo đường
3 trang 109 0 0 -
SINH MẠCH TÁN (Nội ngoại thương biện hoặc luận)
2 trang 81 1 0 -
Sai lầm trong ăn uống đang phổ biến ở người Việt
5 trang 79 0 0