Thông tin tài liệu:
CHỈ ĐỊNH Recol được chỉ định như một thuốc phụ trợ với ăn kiêng để giảm hàm lượng cholesterol LDL và cholesterol toàn phần đã bị tăng cao ở những bệnh nhân tăng cholesterol huyết tiên phát (loại IIa và IIb), khi đáp ứng với ăn kiêng và các liệu pháp không dùng thuốc khác không đủ. Recol cũng được chỉ định để làm chậm tiến triển vữa xơ động mạch vành ở bệnh nhân tim mạch vành như là một phần của chiến lược điều trị để giảm cholesterol LDL và cholesterol toàn phần đến mức mong muốn....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
RECOL (Kỳ 2) RECOL (Kỳ 2) CHỈ ĐỊNH Recol được chỉ định như một thuốc phụ trợ với ăn kiêng để giảm hàmlượng cholesterol LDL và cholesterol toàn phần đã bị tăng cao ở những bệnh nhântăng cholesterol huyết tiên phát (loại IIa và IIb), khi đáp ứng với ăn kiêng và cácliệu pháp không dùng thuốc khác không đủ. Recol cũng được chỉ định để làm chậm tiến triển vữa xơ động mạch vành ởbệnh nhân tim mạch vành như là một phần của chiến lược điều trị để giảmcholesterol LDL và cholesterol toàn phần đến mức mong muốn. Hướng dẫn điều trị theo chương trình giáo dục cholesterol quốc gia (NCEP)được tóm tắt theo bảng dưới : LDL- cholesterol (mg/dl) Hai yếu tố nguy Bệnh xơ vữa động Hàm Mục cơ hay hơn**mạch xác định* lượng khởi đầu tiêu Không Không >=190 =160 =130 =45 ; nữ >=55 hay mãn kinhsớm mà không dùng liệu pháp thay thế estrogen) ; tiền sử gia đình mắc bệnh timmạch vành sớm, đang nghiện thuốc lá, cao huyết áp, xác định HDL-C < 35 mg/dlvà tiểu đường. Trừ đi một yếu tố nguy cơ nếu HDL-C >= 60 mg/dl. Vì mục tiêu điều trị là giảm LDL-C, NCEP khuyến cáo là hàm lượng LDL-C được dùng để khởi động và đánh giá đáp ứng điều trị. Chỉ khi nào hàm lượngLDL-C không có sẵn, thì cholesterol toàn phần mới dùng để kiểm soát điều trị. Recol có thể hữu ích để giảm hàm lượng LDL-C đã tăng cao ở bệnh nhânbị kết hợp chứng tăng cholesterol huyết và tăng triglyceride huyết, trong đó chứngtăng cholesterol huyết là sự bất thường chính (chứng tăng lipoprotein huyết loạiIIb). CHỐNG CHỈ ĐỊNH Quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc. Bệnh gan tiến triển hoặc tăng kéo dài không giải thích được vềtransaminase huyết tương. Mang thai, thời kỳ cho con bú, lovastatin chống chỉ định trong khi mangthai. Lovastatin chỉ dùng cho phụ nữ ở tuổi sinh đẻ chỉ khi các bệnh nhân nàymuốn. Nếu họ mang thai trong khi đang dùng thuốc, nên ngưng dùng lovastatinngay và báo cho bệnh nhân biết nguy cơ tiềm tàng cho thai nhi. CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG Suy gan : Chứng tăng kéo dài đáng kể (hơn 3 lần giới hạn trên của mức bình thường)về transaminase huyết tương có thể xảy ra ở 1,9% bệnh nhân dùng lovastatin trongtối thiểu 1 năm trong các nghiên cứu lâm sàng trước đây. Khi ngừng thuốc ở những bệnh nhân này, hàm lượng transaminase thườngtụt dần dần đến mức trước khi điều trị. Tuy nhiên, trong những kinh nghiệm lâm sàng với Recol, bệnh gan có triệuchứng hiếm khi xảy ra với các liều điều trị của lovastatin. Người ta khuyến cáo rằng thử test chức năng gan nên được hoàn thànhtrước khi khởi đầu điều trị, lúc 6 và 12 tuần sau khi điều trị hay tăng liều, sau đóphải kiểm tra định kỳ. Thuốc nên được dùng cẩn thận ở những bệnh nhân uống nhiều rượu hay đãcó tiền sử bệnh gan. Bệnh gan tiến triển hay tăng transaminase không giải thíchđược là những chống chỉ định dùng lovastatin. Cơ xương : Tiêu cơ vân thường đi kèm lovastatin đơn liệu pháp, khi kết hợp với thuốcức chế miễn dịch, kể cả cyclosporin ở những bệnh nhân ghép tim, và khi kết hợpvới gemfibrozil hoặc với acid nicotinic với liều hạ lipid (1 g/ngày), ở những bệnhnhân không ghép. Một vài bệnh nhân đã mắc trước bệnh suy thận, thường là dokết quả của đái tháo nhạt lâu dài. Suy thận cấp do tiêu cơ vân thường được thấyhơn khi kết hợp lovastatin - gemfibrozil, và cũng đã được báo cáo ở những bệnhnhân cấy ghép dùng lovastatin và cyclosporin.