Danh mục

Rối loạn lo âu thời @

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 131.55 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Người bị rối loạn lo âu nên tập thở để điều hòa khí huyết, thư giãn tinh thần. Rối loạn lo âu (RLLÂ) là một dạng bệnh tâm thần, thường hay gặp ở tuổi vị thành niên trở lên, nữ mắc nhiều hơn nam. Đây không phải là bệnh mới, nhưng ở thời đại @ nó tiến triển mạnh hơn, với số lượng bệnh nhân không ngừng tăng lên.Bệnh RLLÂ có biểu hiện tương đối đặc biệt: Người bệnh luôn cho rằng có một điều xấu (về sức khỏe, tài chính, công việc...) đang và thậm chí đã xảy...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Rối loạn lo âu thời @ Rối loạn lo âu thời @ Người bị rối loạn lo âu nên tập thở để điều hòa khí huyết, thư giãn tinh thần. Rối loạn lo âu (RLLÂ) là một dạng bệnh tâm thần, thường hay gặp ở tuổi vịthành niên trở lên, nữ mắc nhiều hơn nam. Đây không phải là bệnh mới, nhưng ởthời đại @ nó tiến triển mạnh hơn, với số lượng bệnh nhân không ngừng tăng lên. Bệnh RLLÂ có biểu hiện tương đối đặc biệt: Người bệnh luôn cho rằng cómột điều xấu (về sức khỏe, tài chính, công việc...) đang và thậm chí đã xảy ra vớimình, dù rằng thực tế không phải vậy. Cùng với những lo lắng mơ hồ hoặc rõ rệt,bệnh nhân RLLÂ còn dễ bị thêm các chứng bệnh khác như hồi hộp, nghẹt thở, đaungực, nhức đầu, đau lưng, co giật cơ bắp, đổ mồ hôi nhiều, hoa mắt, rối loạn tiêuhóa, khô miệng và mất ngủ. Tùy theo đặc điểm của bệnh, người ta chia RLLÂthành 5 thể: - RLLÂ toàn thể (GAD): Là dạng nhẹ nhất, thường gặp ở độ tuổi vị thànhniên cho đến trưởng thành, nữ mắc nhiều hơn nam và thường mang tính gia đình.Phần lớn những người mắc GAD đều có cảm giác khó chịu kéo dài và sự lo lắngkhông thực tế; dễ bị giật mình, khó ngủ, mệt mỏi kéo dài, đau đầu, thỉnh thoảng cónhững cơn hoảng loạn, bồn chồn, trầm cảm, dễ cáu gắt, khó tập trung; run hoặc cogiật, đau nhức cơ bắp, vã mồ hôi, đau bụng, hoa mắt... - Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD): Được xếp vào dạng OCD khi sự lolắng (về điều không có thực) tái diễn và người bệnh có một vài hành vi mang tínhnghi thức (như lau chùi, kiểm tra một việc từ vài cho đến hàng chục lần...) để xuađi những lo lắng đó. Người bệnh OCD biết rằng sự lo lắng của mình không đúng,nhưng vẫn làm, vì hy vọng nỗi lo sẽ được hành động xoa dịu. Rối loạn này thườnggặp ở tuổi vị thành niên hay giai đoạn đầu của trưởng thành. Đi kèm với OCDthường là trầm cảm, những RLLÂ khác, rối loạn ăn uống và vấn đề lạm dụng rượuvà chất gây nghiện. - Ám ảnh sợ: Bệnh này thường bắt đầu ở tuổi thanh niên hay trưởng thành,nữ dễ mắc hơn nam và mang tính gia đình. Người bệnh thường có nỗi sợ phi lýkhông cố ý về một vài điều hay tình huống nào đó. Trong ám ảnh sợ, người ta chiathành 3 nhóm. Thứ nhất là ám ảnh sợ chuyên biệt. Những người này có nỗi sợ vôlý về một vài đối tượng nào đó sợ độ cao, sợ đi máy bay, sợ các con vật nhỏ liti...). Thứ hai là ám ảnh sợ xã hội: Thường thấy lúng túng, khó khăn và sợ hãitrong một tình thế xã hội. Thứ ba là ám ảnh sợ khoảng rộng. Rất nhiều bệnh nhânmắc bệnh ám ảnh sợ có cơ thể tiều tụy, đó là do họ mất quá nhiều công sức và tinhthần để tìm mọi cách xóa bỏ các ám ảnh. - Rối loạn stress sau chấn thương (PTSD): Có thể xuất hiện ở bất cứ tuổinào sau khi phải chứng kiến hay trải qua một sang chấn mạnh khiến họ không thểhồi phục, hay trở về một đời sống bình thường. PTSD thường bắt đầu trong vòng 6tháng sau sang chấn. Những người bị PTSD có thể hồi tưởng về sang chấn, bị têdại cảm xúc và không thể tập trung vào những công việc thường ngày. Bệnh nhânthường có các triệu chứng như có các ác mộng và hồi tưởng về sang chấn, cô lậpvới gia đình và bạn bè và giận dữ bất chợt, có thể kèm theo trầm cảm, lạm dụngchất gây nghiện hay lo âu. - Cơn hoảng loạn: Thường gặp ở những người mới trưởng thành, nữ mắcnhiều hơn nam. Trước một nguy cơ (thường là do người bệnh tưởng tượng), cơ thểbắt đầu có các phản ứng như: nhịp tim và nhịp thở tăng nhanh, hồi hộp, vã mồ hôi,run rẩy, cảm giác hụt hơi, ngộp thở, đau ngực, buồn nôn, đau bụng, hoa mắt, cảmgiác quay cuồng, mất nhận thức, mất tự chủ, sợ mất trí hay sợ chết... Người bị cơnhoảng loạn thường cố gắng tránh những cơn sắp tới bằng các trò giải trí hay tìmđến các chất gây nghiện hay rượu bia. - RLLÂ khi xa cách: Hay gặp ở trẻ em. Trẻ thường lo lắng hoặc sợ hãi khiphải xa nhà hoặc những người chăm sóc chúng và thường phản ứng lại bằng cáchkhông chịu đi học hoặc đi ngủ một mình. - Sợ giao tiếp: Thường gặp ở trẻ nhỏ. Khi bị bệnh này trẻ thường có cácbiểu hiện rụt rè trong các môi trường xã hội, hoặc khóc, hờn giận, lạnh lùng, bámlấy những người lớn quen thuộc. Một số trẻ có thể gặp khó khăn trong học tập,không chịu đi học, hoặc tránh các hoạt động giao tiếp thông thường với bạn bèđồng trang lứa. Điều trị RLLÂ: Chủ yếu bằng biện pháp tâm lý kết hợp với dùng thuốc,trong đó liệu pháp tâm lý giữ vai trò chủ đạo. Thuốc dùng trong bệnh này chỉ giúp giảm triệu chứng. Hai loại thuốc chínhđược sử dụng là thuốc an thần và chống trầm cảm. Việc dùng thuốc cần hết sứccẩn thận, vì nếu không bệnh nhân sẽ phụ thuộc thuốc. Thường thì các thuốc nàyđược chỉ định dùng trong thời gian ngắn và có kiểm soát chặt chẽ của bác sĩ điềutrị cũng như sự hỗ trợ tích cực từ phía người thân của bệnh nhân. Điều trị tâm lý: Có nhiều phương pháp điều trị tâm lý khác nhau nhằmgiúp bệnh nhân quen dần với điều làm họ hoảng sợ, rồi dần dần đươn ...

Tài liệu được xem nhiều: