SÁCH LINH KHU - THIÊN 16: DOANH KHÍ
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 90.09 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hoàng Đế nói: “Con đường của doanh khí qúy nhất là ở chỗ nạp cốc khí nhập vào Vị, sau đó mới truyền lên cho Phế, tràn ngập ở trong và bố tán ra ngoài, phần tinh chuyên vận hành trong kinh toại, nó doanh hành 1 cách thường không bao giờ ngừng lại, chung rồi lại thỉ, đây chính là kỷ của Thiên Địa[1]. Cho nên, khí bắt đầu xuất ra từ Thái âm rồi chú rót vào kinh thủ Dương minh, vận hành lên trên rót vào kinh túc Dương minh, xuống dưới vận hành cho đến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 16: DOANH KHÍ SÁCH LINH KHU THIÊN 16: DOANH KHÍ Hoàng Đế nói: “Con đường của doanh khí qúy nhất là ở chỗ nạp cốckhí nhập vào Vị, sau đó mới truyền lên cho Phế, tràn ngập ở trong và bố tánra ngoài, phần tinh chuyên vận hành trong kinh toại, nó doanh hành 1 cáchthường không bao giờ ngừng lại, chung rồi lại thỉ, đây chính là kỷ của ThiênĐịa[1]. Cho nên, khí bắt đầu xuất ra từ Thái âm rồi chú rót vào kinh thủDương minh, vận hành lên trên rót vào kinh túc Dương minh, xuống dướivận hành cho đến mu bàn chân rồi rót vào trong khoảng ngón cái để hợp vớikinh Thái âm, đi lên trên áp vào Tỳ, từ Tỳ rót vào giữa Tâm, lại tuần hànhtheo kinh Thủ Thiếu âm, xuất ra khỏi nách, xuống dưới theo cẳng tay để rótvào ngón tay út, hợp với kinh Thủ Thái dương, lại vận hành lên trên, cưỡilên nách, xuất ra ở xương má (dưới mắt) rót vào khoé mắt trong, lên đỉnhđầu, xuống đến cổ gáy để hợp với kinh túc Thái dương, tuần hành theo cộtsống xuống dưới xương cùng, rồi lại đi xuống để rót vào đầu ngón út, tuầnhành theo giữa lòng bàn chân để rót vào kinh túc Thiếu âm, tuần hành lêntrên rót vào Thận, từ Thận lại rót vào ngoài Tâm để rồi tán ra ở giữa lồngngực, tuần hành theo mạch của kinh Tâm chủ, xuất ra dưới nách, đi xuốngcẳng tay, xuất ra ở giữa 2 đường gân, nhập vào lòng bàn tay, xuất ra ở đầungón giữa, trở lại rót vào đầu ngón áp út phía ngón út hợp với kinh ThủThiếu dương, đi lên trên rót vào Chiên Trung, tán ra ở Tam tiêu, từ Tam tiêurót vào Đởm, xuất ra ở hông sườn, rót vào kinh túc Thiếu dương, lại đixuống mu bàn chân, rồi lại từ mu bàn chân rót vào trong chỗ khoảng ngónchân cái để hợp với kinh Túc Quyết âm, vận hành lên trên đến Can, từ Canlên trên rót vào Phế, lên trên đến cổ họng, nhập vào khiếu trong mũi (khángtảng) dứt ở khiếu cổ họng (súc môn)[2]. Chi biệt của nó lên trên trán, tuần hành ở đỉnh đầu, xuống dưới cổgáy, tuần hành theo cột sống nhập vào xương cùng, đó là nơi c ủa Đốc mạchđể lạc với Âm khí (bộ sinh dục), lên trên đi qua giữa chòm lông mu, nhậpvào giữa rốn, lên trên tuần hành theo bên trong bụng, nhập vào Khuyết bồn,xuống dưới rót vào giữa Phế, rồi lại xuất ra ở kinh Thái âm[3]. Đây chính làcon đường vận hành của doanh khí, tạo thành lẽ thường của sự nghịch thuậnvậy[4]. THIÊN 17: MẠCH ĐỘ Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về vấn đề mạch độ”[1]. Kỳ Bá đáp : “Lục dương kinh của Thủ đi từ tay đến đầu, dài 5 xích, 5lần 6 là 3 trượng[2]. Lục âm kinh của Thủ đi từ tay đến giữa ngực dài 3 xích 5 thốn. 3 lần 6là 1 trượng 8 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại là 2 trượng 1 xích[3]. Lục dương kinh của Túc đi từ chân lên trên đến đầu dài 8 xích, 6 lần 8là 4 trượng 8 xích[4]. Lục Âm kinh của Túc đi từ chân lên đến giữa ngực dài 6 xích 5 thốn,6 lần 6 là 3 trượng 6 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại là 3 trượng 9 xích[5]. Kiểu mạch đi từ chân lên đến mắt dài 7 xích 5 thốn, 2 lần 7 là 1trượng 4 xích, 2 lần 5 là 1 xích, hợp lại là 1 trượng 5 xích[6]. Đốc mạch, Nhậm mạch mỗi mạch dài 4 xích 5 thốn, 2 lần 4 là 8 xích,2 lần 5 là 1 xích, hợp lại là 9 xích, hợp lại là 9 xích, tất cả hợp lại là 16trượng 2 xích[7]. Đây là đại kinh toại của khí[8]. Kinh mạch thuộc về lý, phần nhánh và lạc ngang là thuộc về lạc[9].Biệt của lạc là tôn (lạc, tôn lạc) nếu thịnh thì thành huyết, nên mau mauchâm trừ bỏ nó đi[10]. Nếu khí thịnh thì dùng phép châm tả, nếu khí hư thìnên cho uống thuốc để bổ nó[11]. Ngũ tạng thường thông với thất khiếu ởtrên[12]. Cho nên Phế khí thông với mũi, nếu Phế lợi thì mũi có thể biếtđược mùi thối hoặc thơm[13]. Tâm khí thông với lưỡi, nếu Tâm hòa thì lưỡicó thể biết được ngũ vị[14]. Can khí thông với mắt, nế u Can hòa thì mắt cóthể phân biệt được ngũ sắc[15]. Tỳ khí thông với miệng, nếu Tỳ hòa thìmiệng có thể biết được ngũ cốc[16]. Thận khí thông với tai, nếu thận hòa thìthì tai có thể nghe được ngũ âm[17]. Ngũ tạng bất hòa thì thất khiếu bấtthông, lục phủ bất hòa thì khí sẽ bị giữ lại và thành chứng ung[18]. Cho nên, nếu tà khí ở tại phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạchbất hòa thì khí bị giữ lại, khí bị giữ lại thì Dương khí bị thịnh[19]. NếuDương khí quá thịnh thì âm bị bất lợi, Âm mạch bất lợi thì huyết bị giữ lại,huyết bị giữ lại thì Âm khí bị thịnh[20]. Nếu Âm khí quá thịnh thì Dươngkhí không thể tươi, gọi là quan[21]. Nếu Dương khí quá thịnh thì Âm khíkhông thể tươi, gọi là cách[22]. Nếu cả Âm Dương đều thịnh không cùnglàm vinh cho nhau, gọi là Quan Cách[23]. Khi bị Quan Cách thì sẽ khôngsống được trọn đời mình mà đã chết rồi vậy[24]. Hoàng Đế hỏi: “Kiểu mạch khởi lên như thế nào và chấm dứt như thếnào ? Khí nào đã làm vinh nhau ?”[25]. Kỳ Bá đáp : “Kiểu mạch là 1 biệt mạch của kinh Thiếu Âm, khởi lênở sau xương Nhiên cốt, lên trên khỏi mắt cá trong lên thẳng tuần hành theophía trong đùi, nhập vào Âm khí, lên trên tuần hành theo trong ngực, nhậpvào Khuyết bồn, lên trên, xuất ra ở trước huyệt Nhân Nghênh, nhập vào phíadưới mắt rồi thuộc vào khoé mắt trong, hợp với kinh Thái dương và mạchDương kiểu rồi lên trên nữa; (Âm kiểu và Dương kiểu) cùng giao khí vớinhau thì sẽ làm trơn ướt cho mắt; Nếu khí này không làm thông (tươi) chonhau thì mắt sẽ không nhắm lại được”[26]. Hoàng Đế hỏi:“Khí chỉ độc hành ở ngũ tạng mà không làm vinh ở lụcphủ, tại sao thế?”[27]. Kỳ Bá đáp : “Khí không thể không vận hành, nó ví như nước phảichảy, nhật nguyệt phải vận hành không ngừng[28]. Cho nên Âm mạch làmvinh cho tạng, Dương mạch làm vinh cho phủ, như chiếc vòng ngọc khôngđầu mối, không biết cái kỷ ở chỗ nào, chung rồi lại thỉ[29]. Khí tràn ngậpcủa nó, bên trong nó tưới ướt tạng phủ, bên ngoài nó làm trơn ướt tấulý”[30]. Hoàng Đế hỏi: “Kiểu mạch có Âm, có Dương, vậy mạch nào tính theocon số nào ?”[31]. Kỳ Bá đáp: “Người con trai p ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 16: DOANH KHÍ SÁCH LINH KHU THIÊN 16: DOANH KHÍ Hoàng Đế nói: “Con đường của doanh khí qúy nhất là ở chỗ nạp cốckhí nhập vào Vị, sau đó mới truyền lên cho Phế, tràn ngập ở trong và bố tánra ngoài, phần tinh chuyên vận hành trong kinh toại, nó doanh hành 1 cáchthường không bao giờ ngừng lại, chung rồi lại thỉ, đây chính là kỷ của ThiênĐịa[1]. Cho nên, khí bắt đầu xuất ra từ Thái âm rồi chú rót vào kinh thủDương minh, vận hành lên trên rót vào kinh túc Dương minh, xuống dướivận hành cho đến mu bàn chân rồi rót vào trong khoảng ngón cái để hợp vớikinh Thái âm, đi lên trên áp vào Tỳ, từ Tỳ rót vào giữa Tâm, lại tuần hànhtheo kinh Thủ Thiếu âm, xuất ra khỏi nách, xuống dưới theo cẳng tay để rótvào ngón tay út, hợp với kinh Thủ Thái dương, lại vận hành lên trên, cưỡilên nách, xuất ra ở xương má (dưới mắt) rót vào khoé mắt trong, lên đỉnhđầu, xuống đến cổ gáy để hợp với kinh túc Thái dương, tuần hành theo cộtsống xuống dưới xương cùng, rồi lại đi xuống để rót vào đầu ngón út, tuầnhành theo giữa lòng bàn chân để rót vào kinh túc Thiếu âm, tuần hành lêntrên rót vào Thận, từ Thận lại rót vào ngoài Tâm để rồi tán ra ở giữa lồngngực, tuần hành theo mạch của kinh Tâm chủ, xuất ra dưới nách, đi xuốngcẳng tay, xuất ra ở giữa 2 đường gân, nhập vào lòng bàn tay, xuất ra ở đầungón giữa, trở lại rót vào đầu ngón áp út phía ngón út hợp với kinh ThủThiếu dương, đi lên trên rót vào Chiên Trung, tán ra ở Tam tiêu, từ Tam tiêurót vào Đởm, xuất ra ở hông sườn, rót vào kinh túc Thiếu dương, lại đixuống mu bàn chân, rồi lại từ mu bàn chân rót vào trong chỗ khoảng ngónchân cái để hợp với kinh Túc Quyết âm, vận hành lên trên đến Can, từ Canlên trên rót vào Phế, lên trên đến cổ họng, nhập vào khiếu trong mũi (khángtảng) dứt ở khiếu cổ họng (súc môn)[2]. Chi biệt của nó lên trên trán, tuần hành ở đỉnh đầu, xuống dưới cổgáy, tuần hành theo cột sống nhập vào xương cùng, đó là nơi c ủa Đốc mạchđể lạc với Âm khí (bộ sinh dục), lên trên đi qua giữa chòm lông mu, nhậpvào giữa rốn, lên trên tuần hành theo bên trong bụng, nhập vào Khuyết bồn,xuống dưới rót vào giữa Phế, rồi lại xuất ra ở kinh Thái âm[3]. Đây chính làcon đường vận hành của doanh khí, tạo thành lẽ thường của sự nghịch thuậnvậy[4]. THIÊN 17: MẠCH ĐỘ Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về vấn đề mạch độ”[1]. Kỳ Bá đáp : “Lục dương kinh của Thủ đi từ tay đến đầu, dài 5 xích, 5lần 6 là 3 trượng[2]. Lục âm kinh của Thủ đi từ tay đến giữa ngực dài 3 xích 5 thốn. 3 lần 6là 1 trượng 8 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại là 2 trượng 1 xích[3]. Lục dương kinh của Túc đi từ chân lên trên đến đầu dài 8 xích, 6 lần 8là 4 trượng 8 xích[4]. Lục Âm kinh của Túc đi từ chân lên đến giữa ngực dài 6 xích 5 thốn,6 lần 6 là 3 trượng 6 xích, 5 lần 6 là 3 xích, hợp lại là 3 trượng 9 xích[5]. Kiểu mạch đi từ chân lên đến mắt dài 7 xích 5 thốn, 2 lần 7 là 1trượng 4 xích, 2 lần 5 là 1 xích, hợp lại là 1 trượng 5 xích[6]. Đốc mạch, Nhậm mạch mỗi mạch dài 4 xích 5 thốn, 2 lần 4 là 8 xích,2 lần 5 là 1 xích, hợp lại là 9 xích, hợp lại là 9 xích, tất cả hợp lại là 16trượng 2 xích[7]. Đây là đại kinh toại của khí[8]. Kinh mạch thuộc về lý, phần nhánh và lạc ngang là thuộc về lạc[9].Biệt của lạc là tôn (lạc, tôn lạc) nếu thịnh thì thành huyết, nên mau mauchâm trừ bỏ nó đi[10]. Nếu khí thịnh thì dùng phép châm tả, nếu khí hư thìnên cho uống thuốc để bổ nó[11]. Ngũ tạng thường thông với thất khiếu ởtrên[12]. Cho nên Phế khí thông với mũi, nếu Phế lợi thì mũi có thể biếtđược mùi thối hoặc thơm[13]. Tâm khí thông với lưỡi, nếu Tâm hòa thì lưỡicó thể biết được ngũ vị[14]. Can khí thông với mắt, nế u Can hòa thì mắt cóthể phân biệt được ngũ sắc[15]. Tỳ khí thông với miệng, nếu Tỳ hòa thìmiệng có thể biết được ngũ cốc[16]. Thận khí thông với tai, nếu thận hòa thìthì tai có thể nghe được ngũ âm[17]. Ngũ tạng bất hòa thì thất khiếu bấtthông, lục phủ bất hòa thì khí sẽ bị giữ lại và thành chứng ung[18]. Cho nên, nếu tà khí ở tại phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạchbất hòa thì khí bị giữ lại, khí bị giữ lại thì Dương khí bị thịnh[19]. NếuDương khí quá thịnh thì âm bị bất lợi, Âm mạch bất lợi thì huyết bị giữ lại,huyết bị giữ lại thì Âm khí bị thịnh[20]. Nếu Âm khí quá thịnh thì Dươngkhí không thể tươi, gọi là quan[21]. Nếu Dương khí quá thịnh thì Âm khíkhông thể tươi, gọi là cách[22]. Nếu cả Âm Dương đều thịnh không cùnglàm vinh cho nhau, gọi là Quan Cách[23]. Khi bị Quan Cách thì sẽ khôngsống được trọn đời mình mà đã chết rồi vậy[24]. Hoàng Đế hỏi: “Kiểu mạch khởi lên như thế nào và chấm dứt như thếnào ? Khí nào đã làm vinh nhau ?”[25]. Kỳ Bá đáp : “Kiểu mạch là 1 biệt mạch của kinh Thiếu Âm, khởi lênở sau xương Nhiên cốt, lên trên khỏi mắt cá trong lên thẳng tuần hành theophía trong đùi, nhập vào Âm khí, lên trên tuần hành theo trong ngực, nhậpvào Khuyết bồn, lên trên, xuất ra ở trước huyệt Nhân Nghênh, nhập vào phíadưới mắt rồi thuộc vào khoé mắt trong, hợp với kinh Thái dương và mạchDương kiểu rồi lên trên nữa; (Âm kiểu và Dương kiểu) cùng giao khí vớinhau thì sẽ làm trơn ướt cho mắt; Nếu khí này không làm thông (tươi) chonhau thì mắt sẽ không nhắm lại được”[26]. Hoàng Đế hỏi:“Khí chỉ độc hành ở ngũ tạng mà không làm vinh ở lụcphủ, tại sao thế?”[27]. Kỳ Bá đáp : “Khí không thể không vận hành, nó ví như nước phảichảy, nhật nguyệt phải vận hành không ngừng[28]. Cho nên Âm mạch làmvinh cho tạng, Dương mạch làm vinh cho phủ, như chiếc vòng ngọc khôngđầu mối, không biết cái kỷ ở chỗ nào, chung rồi lại thỉ[29]. Khí tràn ngậpcủa nó, bên trong nó tưới ướt tạng phủ, bên ngoài nó làm trơn ướt tấulý”[30]. Hoàng Đế hỏi: “Kiểu mạch có Âm, có Dương, vậy mạch nào tính theocon số nào ?”[31]. Kỳ Bá đáp: “Người con trai p ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
sách liên khu y học cổ truyền sách y học kinh nghiệm chữa bệnh các bệnh thuờng gặpGợi ý tài liệu liên quan:
-
thường thức bảo vệ sức khỏe mùa đông: phần 1 - nxb quân đội nhân dân
111 trang 274 0 0 -
Phương pháp lọc màng bụng cho những người bệnh suy thận
6 trang 231 0 0 -
6 trang 180 0 0
-
120 trang 173 0 0
-
HƯỚNG DẪN ĐIÊU KHẮC RĂNG (THEO TOOTH CARVING MANUAL / LINEK HENRY
48 trang 166 0 0 -
Đề tài tiểu luận: Tổng quan về cây thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị ho
83 trang 164 0 0 -
Tài liệu học tập Bệnh học nội khoa Y học cổ truyền
1503 trang 151 5 0 -
97 trang 125 0 0
-
Bài tiểu luận Triết học: Học thuyết âm dương, ngũ hành và vận dụng trong y, dược học cổ truyền
18 trang 125 0 0 -
Tài liệu Bệnh Học Thực Hành: TĨNH MẠCH VIÊM TẮC
8 trang 124 0 0