Danh mục

SÁCH LINH KHU - THIÊN 19: TỨ THỜI KHÍ

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 89.39 KB      Lượt xem: 14      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 5,000 VND Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Ôi ! Khí của tứ thời (bốn mùa), mỗi mùa đều có sự biểu hiện khác nhau, sự khởi lên của trăm bệnh đều có sự sinh ra của nó, phép cứu châm lấy gì làm chỗ định ?”[1]. Kỳ Bá đáp : “Khí của bốn mùa đều có nơi ảnh hưởng (trong thân thể chúng ta), phép cứu châm phải đắc được khí huyệt là chỗ định[2]. Cho nên mùa xuân thủ ở kinh tức là nơi phận nhục của huyết mạch, nếu nặng thì châm sâu, nếu nhẹ thì châm cạn[3]. Mùa...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 19: TỨ THỜI KHÍ SÁCH LINH KHU THIÊN 19: TỨ THỜI KHÍ Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Ôi ! Khí của tứ thời (bốn mùa), mỗi mùa đềucó sự biểu hiện khác nhau, sự khởi lên của trăm bệnh đều có sự sinh ra củanó, phép cứu châm lấy gì làm chỗ định ?”[1]. Kỳ Bá đáp : “Khí của bốn mùa đều có nơi ảnh hưởng (trong thân thểchúng ta), phép cứu châm phải đắc được khí huyệt là chỗ định[2]. Cho nênmùa xuân thủ ở kinh tức là nơi phận nhục của huyết mạch, nếu nặng thìchâm sâu, nếu nhẹ thì châm cạn[3]. Mùa hạ thủ ở thịnh kinh và tôn lạc, thủ ởphận gian, tuyệt nó ngay ở bì phu[4]. Mùa thu thủ huyệt Kinh và Du, khí tàở tại phủ thì thủ huyệt Hợp[5]. Mùa đông thủ huyệt Tỉnh, Vinh, và tất phảichâm sâu mà lưu kim lâu”[6]. Bệnh ôn ngược, mồ hôi không ra, thuộc về nhóm 59 vết châm[7]. Bệnh Phong thủy bì phu bị trướng, thuộc nhóm 57 vết châm, châm lấyhuyết ở bì phu cho đến hết[8]. Bệnh xôn tiết châm bổ Tam âm chi thượng (tức Tam âm), châm bổhuyệt Âm Lăng Tuyền, tất cả đều lưu kim lâu, khi nào nhiệt khí vận hànhmới thôi[9]. Bệnh chuyển gân (cân) ở Dương thì trị Dương, chuyển gân ở Âm thìtrị Âm, tất cả nên dùng phép thiêu châm[10]. Bệnh đồ thủy, trước hết thủ huyệt dưới Hoàn Cốc 3 thốn, dùng phichâm để châm, khi đã châm rồi lại dùng thêm phép đồng châm để châm đichâm lại nhiều lần, nhằm châm cho hết thủy, được vậy thì cơ nhục mới rắnchắc[11]. Khi thủy đến chậm thì lòng phiền muộn, khi thủy đến nhanh thì antĩnh, cách ngày châm cho đến khi thủy ra hết mới thôi[12]. Nên uống loạithuốc làm thông cái bế [13]. Trong lúc châm thì chỉ nên uống[14]. Trong lúcuống thì không được ăn, trong lúc ăn thì không được uống, không được ăncái gì khác (ngoài thủy cốc) trong thời gian 135 ngày (mới bình phục)[15]. Bệnh Trước Tý làm cho sự hành động khó khăn, hàn khí lâu ngàykhông hết, mau mau thủ huyệt Tam Lý[16]. Cốt cứng rắn như thân cây cứng, (Đại và tiểu) trường đều bất tiện, thủhuyệt Tam Lý, nếu khí thịnh thì châm tả, khí hư thì châm bổ [17]. Bệnh Lệ phong, tìm châm trên chỗ sưng thủng, dùng kim nhọn châmnơi ấy, dùng tay đè cho ác khí xuất ra, cho đến khi nào sự sưng thũng hếtmới thôi, nên ăn những thức ăn đúng phép, không ăn những gì ngoài ra, đểcó thể phát độc[18]. Bệnh trong bụng thường kêu (sôi), đó là khí xung lên trên đến ngực,làm cho suyễn không đứng lâu được, đó là tà khí đang ở tại Đại trường,châm huyệt Nguyên của hoang, châm huyệt Cự Hư Thượng Liêm và TamLý[19]. Bệnh tiểu phúc (Trường) đau dẫn xuống hòn dái, dẫn đến cột sống,thắt lưng, xung lên đến Tâm, tà ở tại Tiểu trường làm liên hệ đến hòn dáicho đến cột sống, xuyên qua Can, Phế, lạc với Tâm hệ, khi nào khí bị thịnhthì thành chứng Quyết nghịch, xung lên đến trường Vị, hơ nóng Can, tán raở hoang, kết lại ở vùng rôùn, vì vậy, nên thủ huyệt Nguyên của hoang đểlàm tán tà khí, châm kinh Thái âm để đoạt tà khí, châm kinh Quyết âm để hạtà khí, châm huyệt Cự Hư Hạ Liêm để trừ tà khí, đó là xét theo các đườngkinh mà tà khí đi qua để điều khí[20]. Bệnh thường hay nôn, mỗi lần nôn ra nước đắng, hay thở dài ra, thởmạnh ra, trong lòng thấy trống rỗng, sợ có người sắp đến bắt mình; đó là tàkhí ở tại Đởm, nghịch lên đến Vị, chất dịch của Đởm tiết ra làm cho miệngbị đắng, Vị khí bị nghịch thì ói ra chất đắng, cho nên gọi là chứng ẩu Đởm,thủ huyệt Tam Lý nhằm làm cho Vị khí hạ xuống[21]. Khi Vị khí bị nghịchnên châm phần huyết lạc của kinh túc Thiếu dương nhằm làm cho khí đởmnghịch được dừng lại, nhằm điều hòa sự hư thực, đuổi được tà khí[22]. Bệnh ăn nuốt không xuống, hoành cách bị bế tắc không thông, đó là tàkhí ở tại Vị hoãn[23]. Nếu tà khí ở tại thượng hoãn thì nên châm để làm chothượng hoãn đưa khí đi xuống, nếu tà khí ở tại hạ hoãn thì nên châm để làmcho hạ hoãn tán khí (tả)[24]. Bệnh tiểu phúc, đau và sưng lên, không tiểu tiện được, đó là tà khí ởtại Tam tiêu, nên thủ huyệt Đại lạc của kinh túc Thái dương bàng quang, cóthể luôn cả tiểu lạc và tôn lạc, khi nào trông thấy những tiểu lạc của (Tháidương) và Quyết âm kết thành huyết lạc, (trong khoảng mu bàn chân chođến kheo chân), nên châm tả, nếu nó sưng lên đến vị hoãn thì thủ huyệt TamLý[25}. Nhìn cái sắc, xét cái bệnh do đâu mà ra, biết được bệnh đã tán (hết)hay còn quay trở lại, xem màu sắc của mắt để biết được bệnh còn hay hết,nên giữ bình tĩnh để giữ được sự hài hòa giữa hình và thần, lắng nghe sựđộng tĩnh, nắm giữ mạch Khí khẩu và Nhân nghênh, dựa vào mạch đangcứng và thịnh hoạt, đó là bệnh ngày càng tiến thêm, mạch nhuyễn (mềm) đólà bệnh đang giảm[26]. Nếu các kinh đang thực thì biết đó là trong khoảng 3ngày bệnh sẽ hết[27]. Mạch Khí khẩu biểu hiện được Âm khí, mạch Nhânnghênh không biểu hiện được dương khí [28]. ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: