Danh mục

SÁCH LINH KHU - THIÊN 24: QUYẾT BỆNH

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 88.96 KB      Lượt xem: 4      Lượt tải: 0    
Hoai.2512

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chứng Quyết đầu thống làm cho mặt như bị sưng lên, khởi lên Tâm phiền, thủ huyệt ở kinh túc Dương minh và Thái âm[1]. Chứng Quyết đầu thống làm cho mạch ở đầu bị đau, tâm bi, thường hay khóc, nên xem cái động mạch ở đầu, nếu ngược lại bị thịnh, phải châm xuất huyết cho hết, sau đó mới điều bổ kinh túc Quyết âm[2]. Chứng Quyết đầu thống xảy ra 1 cách vững chắc, đầu nặng mà đau, nên châm tả 5 hàng mạch trên đầu, mỗi hàng 5 huyệt, trước hết thủ huyệt ở...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 24: QUYẾT BỆNH SÁCH LINH KHU THIÊN 24: QUYẾT BỆNH Chứng Quyết đầu thống làm cho mặt như bị sưng lên, khởi lên Tâmphiền, thủ huyệt ở kinh túc Dương minh và Thái âm[1]. Chứng Quyết đầu thống làm cho mạch ở đầu bị đau, tâm bi, thườnghay khóc, nên xem cái động mạch ở đầu, nếu ngược lại bị thịnh, phải châmxuất huyết cho hết, sau đó mới điều bổ kinh túc Quyết âm[2]. Chứng Quyết đầu thống xảy ra 1 cách vững chắc, đầu nặng mà đau,nên châm tả 5 hàng mạch trên đầu, mỗi hàng 5 huyệt, trước hết thủ huyệt ởkinh thủ Thiếu âm, sau đó thủ ở kinh túc Thiếu âm[3]. Chứng Quyết đầu thống làm cho ý hay quên, dùng tay đè lên khôngthấy nơi nào đau, nên châm vào nơi động mạch ở 2 bên phải và trái của đầuvà mặt, sau đó mới thủ huyệt ở kinh túc Thiếu âm[4]. Chứng Quyết đầu thống trước hết làm cho cổ gáy bị đau, ứng với thắtlưng và cột sống, trước hết thủ huyệt Thiên Trụ, sau đó thủ huyệt ở kinh túcThái dương[5]. Chứng Quyết đầu thống làm cho đầu bị đau nặng, mạch ở trước và sautai như dâng vọt lên, phát nhiệt, châm tả, xuất huyết, sau đó thủ huyệt ở kinhtúc Thiếu dương[6]. Chứng Chân đầu thống làm cho đầu bị đau nặng, não bị đau suốt, taychân bị hàn đến tận các đốt (tiết), trường hợp này chết, không trị được[7]. Chứng đầu thống (mà) không thủ các huyệt du để chữa, đó là vì ngườibệnh bị té, bị đánh, ác huyết lưu lại bên trong, phần cơ nhục bị thương, bịđau chưa khỏi, nếu thấy châm được nơi đau thì châm, nếu không được thìkhông thể thủ du huyệt ở xa[8]. Chứng đầu thống (mà) không thể châm được, đó là chứng đại tý gâythành ác hoạn (bệnh tật khó khăn), gặp ngày Phong đều xảy ra, chúng ta chỉcó thể làm giảm bớt thôi, không thể hết được[9]. Chứng đầu thống, hàn 1 bên, trước hết thủ huyệt ở kinh thủ Thiếudương, Dương minh, sau đó thủ ở kinh túc Thiếu Dương, Dương minh[10]. Chứng Quyết tâm thống, đau ra đến vùng lưng, hay bị khiết túng, nhưcó cái gì từ ngoài sau đến chạm vào Tâm, làm cho người bệnh bị gù lưng, đógọi là Thận tâm thống; trước hết thủ huyệt Kinh Cốt, Côn Lôn, nếu như đãphát châm rồi mà bệnh vẫn không khỏi, thủ thêm huyệt Nhiên Cốc[11]. Chứng Quyết tâm thống làm cho bụng bị trướng, ngực bị đầy, Tâmcàng bị đau nhiều hơn, gọi là chứng ‘Vị Tâm thống’, thủ huyệt Đại Đô, TháiBạch[12]. Chứng Quyết tâm thống làm cho bệnh nhân đau như như dùng câychùy đâm vào Tâm, Tâm bị đau nhiều, gọi là chứng ‘Tỳ Tâm thống’, thủhuyệt Nhiên Cốc, Đại Khê [13]. Chứng Quyết tâm thống làm cho sắc mặt bị xanh, xanh như mầu củangười chết, suốt ngày không thở được 1 hơi dài, gọi là chứng ‘Can Tâmthống’, thủ huyệt Hành Gian, Đại Xung[14]. Chứng Quyết tâm thống, nếu nằm hoặc nhàn rỗi thì Tâm thống đượcgiãn, bớt, khi nào hoạt động thì đau nhiều hơn, không biến sắc mặt, gọi làchứng ‘Phế Tâm thống’, thủ huyệt Ngư Tế, Đại Uyên[15]. Chứng Chân Tâm thống làm cho tay chân bị xanh cho đến các đốtngón, Tâm bị đau nhiều, sáng phát chiều chết, chiều phát sáng chết[16]. Chứng Tâm thống không châm được: · Ở trung bộ có cái gì thịnh tụ lại, không thể thủ các du huyệt đểchâm[17]. · Trong ruột có trùng hà, và cógiun, tất cả đều không thể châm bằngtiểu châm[18]. Chứng Tâm trường thống làm cho bệnh nhân áo não mà đauđớn, (Những con giun này) tụ lại làm vùng (ngực và bụng) sưng lên, nó đilên xuống, đau có lúc ngưng nghỉ[19]. Bụng bị nhiệt và hay khát nước, nướcdãi chảy ra, đây là bởi con giun gây ra[20]. Dùng tay đè chúng lại, nên kiêntrì đừng để đi sai chỗ, dùng kim lớn để châm, nên giữ thật lâu cho đến khicon giun bị bất động rồi mới rút kim ra[21]. Bụng đầy, đau 1 cách áo não(đó là chứng hà tụ) thành hình, từ giữa để đi lên trên[22]. Tai bị điếc khôngnghe được gì, nên thủ huyệt ở trong tai[23]. Nếu tai bị kêu, thủ huyệt ở độngmạch trước tai[24]. Tai đau không châm được, đó là trong tai có mủ như làđang có rái tai khô, tai không nghe được[25]. Tai điếc, thủ huyệt ở ngón tayáp út ở phía ngón tay út, nằm ở chỗ giao nhục với móng tay[26]. Trước hếtchọn huyệt ở tay, sau đó chọn huyệt ở chân[27]. Tai kêu, thủ huyệt nằm ởchỗ gần móng tay của ngón tay giữa, đau bên trái chọn huyệt ở bên phải ,đau bên phải chọn huyệt ở bên trái, trước hết chọn huyệt ở tay, sau đếnhuyệt ở chân[28]. Xương đùi không đưa lên được, nên nằm nghiêng một bênđể thủ huyệt, huyệt nằm ở chỗ mấu chuyền, châm sâu bằng kim viêm lợichâm, không nên dùng kim đại châm[29]. Bệnh tiêu ra máu, thủ huyệt KhúcTuyền[30]. Chứng phong tý ngày càng tràn ngập tà khí, bệnh không thể khỏiđược, chân như đang đạp trên băng tuyết, có lúc như đi vào nước nóng[31].Từ đùi đến ống chân đều bị tràn ngập tà khí, Tâm phiền, đầu đau, có khinôn, có khi bứt rứt, sau khi choáng váng thì mồ hôi ra, để lâu ngày thì mắthoa, buồn mà hay lo sợ, đoản khí, như vậy sống không quá 3 năm thì phải ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: