Danh mục

SÁCH LINH KHU - THIÊN 7: QUAN CHÂM

Số trang: 7      Loại file: pdf      Dung lượng: 75.69 KB      Lượt xem: 7      Lượt tải: 0    
Jamona

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (7 trang) 0

Báo xấu

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Vấn đề quan yếu của châm thích hay nhất phải kể đến “Quan châm” [1]. Sự thích nghi của 9 loại kim đều có cách châm riêng của nó, mỗi cây kim dài ngắn, to nhỏ đều có tác dụng của nó [2]. Nếu chúng ta ứng dụng không đúng phép thì bệnh không thể hết [3]. Bệnh ở cạn mà châm vào sâu thì bên trong sẽ làm thương đến phần cơ nhục đang lành và nơi bì phu sẽ bị “ung” [4]. Bệnh ở sâu mà châm cạn thì bệnh khí sẽ không được tả và ngược...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH LINH KHU - THIÊN 7: QUAN CHÂM SÁCH LINH KHU THIÊN 7: QUAN CHÂM Vấn đề quan yếu của châm thích hay nhất phải kể đến “Quan châm”[1]. Sự thích nghi của 9 loại kim đều có cách châm riêng của nó, mỗi câykim dài ngắn, to nhỏ đều có tác dụng của nó [2]. Nếu chúng ta ứng dụngkhông đúng phép thì bệnh không thể hết [3]. Bệnh ở cạn mà châm vào sâuthì bên trong sẽ làm thương đến phần cơ nhục đang lành và nơi bì phu sẽ bị“ung” [4]. Bệnh ở sâu mà châm cạn thì bệnh khí sẽ không được tả và ngượclại, nó sẽ gây thành nhiều mủ [5]. Bệnh chỉ đáng châm kim nhỏ mà lại châmkim to, khí sẽ bị tả quá nhiều, bệnh sẽ hại thêm[6]. Bệnh đáng châm kim tomà lại châm kim nhỏ, khí chẳng những không tả mà lại còn trở lại làm tệ hạihơn[7]. Nếu chúng ta làm sai đi sự thích hợp trong phép châm, ví dụ như bệnh(đáng châm kim nhỏ) mà lại châm kim to sẽ tả (đến chân khí), và nếu (đángchâm kim to) mà lại châm kim nhỏ thì bệnh sẽ không thay đổi (hết) được[8]. Điều này chúng ta đã nói về sự tai hại của nó rồi, nay xin được nói vềphương pháp thi hành (đúng cách) [9]. Bệnh ở vùng bì phu, không nằm ở chỗ nào nhất định, nên dùng kimSàm châm, châm vào chỗ đang bệnh [10]. Nhưng nếu gặp chỗ làn da trắng(không dấu vết) thì không nên châm[11]. Bệnh ở tại khoảng phận nhục, nêndùng kim Viên châm, châm vào chỗ đang bệnh [12]. Bệnh ở tại kinh lạc vớichứng Cốt tý, nên dùng kim Phong châm[13]. Bệnh ở tại mạch, khí bị thiểucần phải được châm bổ, trường hợp này nên dùng kim Đề châm, châm vàocác huyệt Tỉnh Huỳnh thuộc các đường kinh [14]. Bệnh gây thành nhữngvùng nhiều mủ, nên dùng kim Phi châm [15]. Bệnh Tý khí bạo phát, nêndùng kim Viêm lợi châm[16]. Bệnh Tý khí gây thành chứng đau nhức khônghết, nên dùng kim Hào châm[16]. Bệnh ở chỗ xa (sâu), nên dùng kimTrường châm[17]. Bệnh Thủy thũng làm cho các vùng Quan tiết khôngthông được, nên dùng kim Đại châm[18]. Bệnh ở tại ngũ tạng bền lâu, nêndùng kim Phong châm[20]. Nếu cần châm tả ở các huyệt Tỉnh Huỳnh thuộc các đường kinh thìnên dựa vào sự thay đổi của bốn mùa[21]. Phàm các phép gồm có 9 để ứng với cửu biến:[22] - Thứ nhất: gọi là “Du thích”, Du thích là phép châm các huyệt HuỳnhDu của các kinh và các huyệt (bối) du thuộc tạng phủ [23]. - Thứ hai: gọi là “Viễn đạo thích”, Viễn đạo thích ý nói phép châmcác huyệt ở dưới mà bệnh ở trên, đó là châm theo lối ‘phủ du’[24]. - Thứ ba: gọi là “Kinh thích”, Kinh thích là châm vào vùng kết lạc củacác đại kinh, thuộc vùng (phận) của đại kinh [25]. - Thứ tư: gọi là “Lạc thích”, Lạc thích là phép châm vào vùng huyếtmạch của tiểu lạc[26]. - Thứ năm: gọi là “Phận thích”, Phận thích là phép châm vào trongkhoảng phận nhục [27]. - Thứ sáu: gọi là “Đại tả thích”, Đại tả thích là phép dùng kim Phichâm để châm vào nơi có nhiều mủ [28]. - Thứ bảy: gọi là “Mao thích”, Mao thích là phép châm các chứng“tý” nổi cạn lên ở vùng bì phu [29]. - Thứ tám: gọi là “Cự thích”, Cự thích là phép châm, nếu bệnh ở tả thìchâm ở huyệt bên hữu, bệnh bên hữu thì châm huyệt bên tả [30]. - Thứ chín: gọi là “Thôi thích”, Thôi thích là phép châm bằng cách đốtnóng nhờ vậy mà thủ được các chứng tý [31]. Phàm các phép châm có 12 tiết để ứng với 12 kinh:[32] - Thứ nhất: gọi là “Ngẫu thích”, Là phép châm dùng tay án ngay chỗtâm ở trước cũng như ở sau lưng chộ đang đau nhức, châm phía trước 1 kim,phía sau 1 kim, nhằm trị chứng “Tâm tý”, Châm theo phương pháp này phảichâm kim nghiêng (bàng) [33]. - Thứ hai: gọi là “Báo thích”, Là châm vào những nơi đau nhức khôngnhất định, chạy lên chạy xuống, châm thẳng vào trong không rút kim ra,dùng tay trái án lên chỗ đau rồi mới rút kim, Châm như vậy nhiều lần [34]. - Thứ ba: gọi là “Khôi khích”, Là châm vào bên cạnh, nâng mũi kimlên phía sau hoặc phía trước nhằm khơi lên đường gân đang bị cấp để trịchứng cân tý [35]. - Thứ tư: gọi là “Tề thích”, là phép châm 1 kim thẳng 2 kim nghiêng(xiên) nhằm trị chứng hàn khí đang còn chưa đi sâu vào trong, còn có tên làTam thích, Tam thích nhằm trị tý khí đang còn chưa đi sâu vào trong [36]. - Thứ năm: gọi là “Dương thích”, là phép châm ở ngay giữa 1 kim, ở4 bên 4 kim, châm cạn nhằm trị hàn khí đang còn ở cạn mà rộng [37]. - Thứ sáu: gọi là “Trực châm thích”, là phép châm (dùng tay) kéo dalên rồi mới châm nhằm trị hàn khí đang còn ở cạn [38]. - Thứ bảy: gọi là “Du thích”, là phép châm thẳng vào rút thẳng ra,phát kim để châm thật lâu và lưu kim thật sâu, nhằm trị tà khí đang thịnh vànhiệt [39]. - Thứ tám: gọi là “Đoản thích”, là phép châm vào đến tận ‘cốt tý’, mũikim hơi dao động và đi sâu vào đến chỗ ‘cốt’ mà mũi kim phải tới như thế làchúng ta đang có tác động lên xuống nhằm bức thiết tà khí đang ở sâu vào‘cốt’ (phải đi ra) vậy [40]. - Thứ chín: gọi là “Phù thích”, là p ...

Tài liệu được xem nhiều:

Tài liệu liên quan: