Danh mục

SÁCH TỐ VẤN - Thiên năm: ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN

Số trang: 14      Loại file: pdf      Dung lượng: 125.14 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: 4,000 VND Tải xuống file đầy đủ (14 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Hoàng Đế nói: Âm Dương là đạo của trời đất, là giường mối của muôn vật, là cha mẹ của sự biến hóa, là gốc ngọn của sự sinh sái, là cái kho chứa mọi sự thần minh (1). Trị bệnh phải tìm tới gốc (2). Nên biết rằng, tích lũy nhiều Dương là trời, tích lũy nhiều Âm là Đất (3). Âm thì tĩnh, Dương thì táo (4). Dương sinh ra, Âm nuôi lớn (5). Dương giảm đi, Âm tiềm tạng (6). Dương hóa khí, Âm thành hình (7). Hàn cực sinh ra Nhiệt, Nhiệt cực sinh ra...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SÁCH TỐ VẤN - Thiên năm: ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN SÁCH TỐ VẤN Thiên năm: ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN Hoàng Đế nói: Âm Dương là đạo của trời đất, là giường mối củamuôn vật, là cha mẹ của sự biến hóa, là gốc ngọn của sự sinh sái, là cái khochứa mọi sự thần minh (1). Trị bệnh phải tìm tới gốc (2). Nên biết rằng, tích lũy nhiều Dương làtrời, tích lũy nhiều Âm là Đất (3). Âm thì tĩnh, Dương thì táo (4). Dươngsinh ra, Âm nuôi lớn (5). Dương giảm đi, Âm tiềm tạng (6). Dương hóa khí,Âm thành hình (7). Hàn cực sinh ra Nhiệt, Nhiệt cực sinh ra Hàn (8). Khíhàn sinh ra chất trọc (đục), khí nhiệt sinh ra chất thanh (trong) (9). Thanh khíở bộ phận dưới thì sinh chứng xôn tiết, trọc khí ở bộ phận trên thì sinhchứng điền trướng (đầy tức) (10). Đó là Âm Dương ở trong người do sự‘Nghịch tùng’ mà sinh bệnh vậy (11). Cho nên thanh Dương là trời, trọc Âm là đất, khí đất bốc lên thànhmây, khí trời giáng xuống thành mưa, mưa làm ra bởi địa khí, mây làm rabởi thiên khí (12). Thanh dương tiết lên thượng khiếu, trọc Âm tiết xuống hạkhiếu (13). Thanh dương phát ra tấu lý, trọc Âm chạy vào năm Tạng (14).Thanh dương đầy đủ ở tứ chi trọc Âm qui tụ về lục phủ (15). Thủy là Âm: Hỏa là Dương (16). Dương là khí, Âm là vị (1) (17). Vịtheo về hình, hình theo về khí, khí theo về tinh, tinh theo về hóa (18). Tinhnhờ ở khí, hình nhờ ở vị (3) (19). Do hóa sinh ra tinh, do khí sinh ra hình(20). Vị làm thương hình, khí làm thương tinh (21). Tinh hóa làm khí, khí thương bởi vị (22). Âm vị tiết ra hạ khiếu, Dương khí tiết ra thượng khiếu (23). Vị hậu thuộc về Âm, bạc thuộc về dương (24). Vị hậu thì phát tiết, bạc thì không, khí bạc thì phát tiết, hậu thì phátnhiệt. Cái khí của tráng hỏa suy, thì cái khí của thiếu hỏa tráng (25). Tráng hỏa ‘thu hút’ khí, khí ‘thu hút’ thiếu hỏa (26). Tráng hỏa làm tán khí, thiếu hỏa sẽ sinh khí(27). Khí vị tân, cam, công năng của nó chuyên về phát tán, thuộc Dương(28). Khí vị toan, khổ, công năng của nó có thể dũng liệt, thuộc Âm (29). Âm thắng thì Dương sẽ mắc bệnh: Dương thắng thì Âm sẽ mắc bệnh(30). Dương thắng thì nhiệt, Âm thắng thì hàn (31). Gặp (trùng) hàn thì hóa nhiệt, gặp nhiệt thì hóa hàn (32). Hàn làm thương hình, nhiệt làm thương khí (33). Khí bị tổn thươngthành bệnh đau, hình bị thương thành bệnh thũng (34). Nếu trước đau mà sau mới thũng, đó là khí làm thương hình; nếutrước thũng mà sau mới đau, đó là hình làm thương khí(35). Phong thắng thì sinh ra động (36). Nhiệt thắng thì sinh ra thũng (37).Táo thắng thì sinh ra can (38). Hàn thắng thì sinh ra ‘phù’ (thần khí phù việt)(39). Thấp thắng thì sinh ra ‘nhu tiết’ (ẩm thấp), tiết tả (40). Trời có bốn mùa, năm hành để thi hành sự sinh trưởng, thâu, tạng, vàđể sinh ra các khí hàn, thử, táo, thấp, phong (41). Người có năm tạng hóa ra năm khí, để sinh ra hỷ, nó ùä, bi, ưu khủng(2) (42). Cho nên, hỷ với nóùä làm thương đến khí, hàn với thử làm thươngđến hành (3) (43). Bạo nóùä thì thương đến Âm, bạo hỷ thì thương đến hình (44). Nếu khí dẫn ngược lên, mạch sẽ bị đầy tràn, ly thoát mất cái hình củachân tạng (45). Hỷ, nóùä không hạn chế, hàn thử để quá độ, sinh mệnh sẽ khôngđược bền (46). Cho nên ‘Trùng Âm’ tất bệnh dương, ‘Trùng dương’ tất bệnh Âm(47). Mùa Đông bị thương về hàn, tới mùa Xuân tất phát bệnh ôn (48) ;mùa Xuân bị thương về phong, tới mùa Hạ tất sẽ phát bệnh xôn tiết (49).Mùa Hạ bị thương về thử, tới mùa Thu tất phát bệnh hơi ngược (50). MùaThu bị thương về thấp, tới mùa Đông tất phát bệnh khái thấu (51). Hoàng Đế hỏi rằng: Tôi nghe các bực thánh nhân đời thượng cổ, hiểu rõ thân thể conngười, về tạng, phủ thì phân biệt rõ ràng, Về kinh mạch thì xét rõ đầu mối;Về ‘lục hợp’ của mạch, nêu rõ xự hội thông của nóù; Về các ‘khí huyệt’ thìchỉ rõ từng nơi và ấn định tên của nó. Về các ‘khê, cốc’ đều chỉ rõ cái chỗbắt đầu của nó; Về bộ phận bì phu, có nghịch có tùng, đều có điều lý; Vềbốn mùa, Âm dương, đều có kinh hỷ, và ứng vào thân thể con người, đều cóbiểu lý liên lạc với nhau...Có thật thế chăng ?(52). Kỳ Bá thưa rằng: Đông phương sinh ra phong (gió), phong sinh mộc, mộc sinh toan,toan sinh can, can sinh cân (gân), cân sinh tâm, Can chủ về mắt (53). Theo lẽ đó, ở trời gọi là ‘huyền’, ở người gọi là ‘đạo’, ở đất thì là‘hóa’, hóa sinh năm vị (54). Đạo sinh ra trí, huyền sinh ra thần (55). Thần ở trời tức là khí phong; ở đất tức là hành mộc, ở thân thể conngười tức cân; ở tạng phủ con người tức Can. (56) Ở sắc là màu xanh; ở Âm là âm giác; ở tiếng là tiếng hô (thở ra, reohò); ở sự biến động là ác (nắm tay lại, hình dung sự co gân); ở khiếu là mắt;ở vị là toan; ở chí là nộ (57). Nóä (giận) làm thương Can, ...

Tài liệu được xem nhiều:

Gợi ý tài liệu liên quan: