Thông tin tài liệu:
Có bốn loài sán lá gan (SLG) chính: Fasciola hepatica lưu hành ở những nước có chăn nuôi cừu, Opisthorchis felineus ghi nhận ở Đông Âu và Liên Xô cũ, Opisthorchis viverrini ở Thái Lan và Lào, và Clonorchis sinensis ở Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam - gọi là SLG phương Đông. Trước đây, SLG là một bệnh lưu hành ở vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng hiện nay nó đang có dấu hiệu bột phát ở miền Trung nước ta.Người ta thường bị nhiễm Clonorchis sinensis khi ăn phải ấu trùng metacercaria có...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sán lá gan clonorchis Sán lá gan clonorchis Có bốn loài sán lá gan (SLG) chính: Fasciola hepatica lưu hành ởnhững nước có chăn nuôi cừu, Opisthorchis felineus ghi nhận ở Đông Âu vàLiên Xô cũ, Opisthorchis viverrini ở Thái Lan và Lào, và Clonorchis sinensisở Trung Quốc, Đài Loan, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam - gọi là SLGphương Đông. Trước đây, SLG là một bệnh lưu hành ở vùng đồng bằng sôngHồng, nhưng hiện nay nó đang có dấu hiệu bột phát ở miền Trung nước ta. Người ta thường bị nhiễm Clonorchis sinensis khi ăn phải ấu trùngmetacercaria có trong các món cá, ốc nấu không chín (như cá hun khói) và cásống, kể cả cá khô, cá muối và cá ngâm giấm. Các ca bệnh cũng được ghi nhận ởẤn Độ và châu Mỹ - có lẽ do việc nhập khẩu cá khô và cá đông lạnh từ Á Đông.Ấu trùng thoát ra khỏi vỏ kén trong ruột non, di chuyển vào các ống dẫn mật vàtrưởng thành trong vòng 3 - 4 tuần. Trứng sán từ đường mật đi vào ruột, thải ra trong phân, vào nước và đượcmột số loài ốc ăn vào; trứng nở thành ấu trùng cercaria chui ra khỏi ốc và xâmnhập vào các lớp thịt dưới vẩy của cá nước ngọt, ở đó nó phát triển trong nhiềutuần và đóng kén để gây nhiễm cho ký chủ cuối cùng là các loài hữu nhũ như chó,mèo và người. Sán trưởng thành có bề dài 10 - 25 mm, bề ngang 3 - 5 mm và có thể sốngtới 20 - 25 năm.Trứng sán dài 27 - 35 micromét. Biểu hiện bệnh lý tùy thuộc vào thời gian nhiễm, số lượng sán, và vị trí cácký sinh trùng. Các con sán không xâm lấn nhu mô gan mà phần lớn trú ngụ ở cácống mật nhỏ và vừa nhưng đôi khi cũng được tìm thấy ở ống mật lớn và túi mật.Sự hiện diện của sán gây tăng sản tế bào tuyến và phản ứng viêm quanh ống, dẫnđến xơ hóa. Các ống mật có thể giãn nở do sán, sỏi hay sự co thắt làm nghẹt. Cácbệnh lý khác bao gồm sưng, viêm túi mật, sỏi mật và carcinoma ống mật - mộtnguyên nhân tử vong quan trọng. Trong các ca nhiễm nặng, sán có thể tìm thấy ởống tụy và có thể gây viêm tuyến tụy. Người bị nhiễm bệnh cấp tính thường bị sốt, tăng bạch cầu ưa eosin vàsưng gan; nhưng các ca bệnh này hay bị bỏ sót. Ở những vùng lưu hành sán lá gan,gần như toàn bộ số dân bị nhiễm, song phần lớn chỉ nhiễm nhẹ và không có triệuchứng. Những người bị nhiễm nặng hơn thường có những dấu hiệu toàn thânkhông rõ nét và các triệu chứng kết hợp với sỏi mật và viêm tụy. Viêm ống mậttiến triển là một biến chứng hệ trọng. Carcinoma ống mật thường kết hợp vớinghẹt các ống mật lớn và giãn nở ống mật hàng loạt. Khám siêu âm có thể chothấy các ống mật ngoại vi bị giãn cũng như các cục sỏi và cả các con sán. Việc định bệnh căn cứ vào bệnh cảnh lâm sàng và việc nhận diện trứng sántrong phân và dịch mật. Trước kia, người ta điều trị bệnh sán lá gan Clonorchissinensis bằng chloroquin. Hiện nay, thuốc chọn lọc là praziquantel (25 mg/kg,uống ba lần trong một ngày).