Danh mục

SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG VÀ DOANH NGHIỆP: MỐI TÌNH DANG DỠ

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 115.50 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
tailieu_vip

Phí tải xuống: 3,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Câu chuyện mối nhân duyên giữa ngân hàng và doanh nghiệp liệu có thành công hay thất bại? Thị trường tài chính Việt Nam gần cuối tháng 8 đã rung động trước sự kiện bầu Kiên bị bắt do liên quan đến hoạt động kinh doanh trái phép ở 3 công ty riêng khác nhau. Cho dù bầu Kiên không có sở hữu chính thức đáng kể nào ở hầu hết các ngân hàng, nhưng thị trường lại phản ứng khá mạnh mẽ về việc này. Tại sao vậy? Bởi vì thị trường đồn đoán rằng ông Kiên có sở hữu cổ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG VÀ DOANH NGHIỆP:MỐI TÌNH DANG DỠ SỞ HỮU CHÉO NGÂN HÀNG VÀ DOANH NGHIỆP:MỐI TÌNH DANG DỠ Câu chuyện mối nhân duyên giữa ngân hàng và doanh nghiệp liệu có thành công hay thất bại? Thị trường tài chính Việt Nam gần cuối tháng 8 đã rung động trước sự kiện bầu Kiên bị bắt do liên quan đến hoạt động kinh doanh trái phép ở 3 công ty riêng khác nhau. Cho dù bầu Kiên không có sở hữu chính thức đáng kể nào ở hầu hết các ngân hàng, nhưng thị trường lại phản ứng khá mạnh mẽ về việc này. Tại sao vậy? Bởi vì thị trường đồn đoán rằng ông Kiên có sở hữu cổ phần ở rất nhiều ngân hàng và công ty khác nhau nhưng lại không chứng minh được. Bầu Kiên chỉ là một trường hợp trong mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam. Xa hơn, người ta có thể lo ngại về vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. Nhưng trên thực tế, sở hữu chéo không phải chỉ có duy nhất ở Việt Nam, mà còn từng phát triển rất mạnh ở nhiều nước phát triển. Liên minh ngân hàng - doanh nghiệp ở Đức và Nhật Sở hữu chéo là một chủ đề nghiên cứu lớn trong giới học thuật trên thế giới, được giới thiệu như là một chiến lược quản trị của doanh nghiệp. Các nghiên cứu thường tập trung nhiều ở các quốc gia có mức độ sở hữu chéo cao. Ở ph ương Tây là Đức, còn ở phương Đông là Nhật. Trong khi đó, mối quan hệ sở hữu chéo giữa ngân hàng và doanh nghiệp lại không phổ biến nhiều ở Anh hay Mỹ. Có lẽ vì những quốc gia này có nền tài chính phát triển định hướng theo thị trường từ lâu đời (huy động vốn dựa vào thị trường, chẳng hạn như thị trường chứng khoán). Sở hữu chéo được định nghĩa khá đơn giản, là 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau. Và tùy vào bối cảnh, sở hữu chéo rất đa dạng khi kết hợp mọi thành phần tham gia kinh tế: ngân hàng - doanh nghiệp sản xuất - công ty bảo hiểm - các quỹ đầu tư... Nhưng trong nhiều mối quan hệ chằng chịt đó, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp lại là đặc biệt hơn cả. Vì sao? Các nghiên cứu trên thế giới đều thừa nhận sự thành công của quá trình công nghiệp hóa ở Đức có sự đóng góp đáng kể của liên minh ngân hàng - doanh nghiệp. Hệ thống tài chính của Đức lúc bấy giờ đi theo định hướng dựa vào ngân hàng. Đồng thời, lĩnh vực ngân hàng cũng có mức tập trung rất cao. Có 4 ngân hàng lớn chiếm 20% quy mô doanh thu toàn ngành: Deutsche Bank, Dresdner Bank và Commerzbank (thành lập từ đầu thế kỷ XVIII vào thời kỳ công nghiệp hóa đầu tiên của người Đức) và Ngân hàng Bayerische Hypo-und Vereinsbank. Các ngân hàng này có thể đóng nhiều vai trò trong quá trình phát triển: nhà cho vay, cổ đông, đại diện ủy quyền hoặc là nhà tư vấn. Đồng thời, đại diện của ngân hàng có thể có mặt trong hội đồng giám sát công ty, cho dù không phải là cổ đông. Đây là một dấu hiệu cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lĩnh vực tài chính lên sự quản trị của các ngành công nghiệp khác. Đặc biệt, sức mạnh của sự giám sát này thể hiện qua 2 con đường: tỉ lệ sở hữu cổ phần và mối quan hệ của người đại diện nằm trong ban quản trị công ty và ngược lại. Chính các mối quan hệ lâu dài, tập trung này đã dẫn đến sự ổn định, gần gũi, phụ thuộc lẫn nhau và hỗ trợ đáng kể trong chiến lược phát triển vì lợi ích chung của các bên liên quan. Bài học thứ hai đến từ Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, các doanh nghiệp Nhật tỏ ra khắng khít hơn với một ngân hàng trọng tâm và chủ đạo. Các ngân hàng sau đó đã cho vay và mua lại cổ phần của doanh nghiệp. Một nghiên cứu cho thấy 65-70% tỉ lệ cổ phiếu các công ty đại chúng niêm yết trên sàn chứng khoán là đều nằm dưới dạng sở hữu chéo lẫn nhau, cho thấy mối quan hệ giữa các doanh nghiệp Nhật cũng không kém phần “chằng chịt”. Hình thức sở hữu chéo của Nhật khi đó được ví như một bản “hợp đồng hôn nhân tiềm ẩn” giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Trong đó, doanh nghiệp được ví như người chồng phải đưa tiền cho vợ khi cần thiết (bằng cách mua thêm cổ phần). Còn ngân hàng được ví như một người vợ cung cấp tiền cho chồng hằng ngày và có thể kiếm thêm tiền từ các mối quan hệ của người chồng. Rõ ràng, bằng chứng từ Đức và Nhật cho thấy sở hữu chéo không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực như mọi người vẫn thường nghĩ. Thậm chí, đây là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của quá trình công nghiệp hóa ở cả 2 quốc gia phát triển ở 2 châu lục khác nhau. Cuộc hôn phối ở Việt Nam Bối cảnh ở Việt Nam cũng y hệt các nước khác trong khoảng thời gian đầu của quá trình công nghiệp hóa. Doanh nghiệp khát vốn và ngân hàng cũng là địa chỉ cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Một ví dụ điển hình là trường hợp của Masan và Techcombank. Mối quan hệ này dựa trên cả 2 con đường: sở hữu cổ phần và những người điều hành nằm trong hội đồng quản trị lẫn nhau. Chẳng hạn, Masan sở hữu 19,71% vốn điều lệ của Techcombank. Đồng thời, nếu như ở Masan, ông Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh lần lượt giữ vị trí Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị thì ở Techcombank, vị trí này đảo ngược lại khi ông Hồ Hùng Anh là Chủ tịch và ông Quang là Phó Chủ tịch. Sự gắn kết bền chặt này đã mang lại lợi ích cho cả 2 bên. Techcombank là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh trong giai đoạn hiện nay. Còn Masan phát triển mạnh mẽ với mô hình sở hữu tài sản mà NCĐT đã có dịp đề cập đến trong Chuyên đề “Masan: Mô hình sở hữu tài sản” cách đây không lâu. Không thiếu những mối quan hệ như thế ở các ngân hàng và doanh nghiệp Việt. Nhưng cũng không có nhiều mối quan hệ mang lại lợi ích tốt đẹp cho cả đôi b ên, thậm chí có khi còn ảnh hưởng xấu. Các trường hợp như Vinashin hay Vinalines là ví dụ tiêu biểu. Là một doanh nghiệp nhà nước, có sự tham gia điều hành của Chính phủ, đồng thời có nhiều mối quan hệ với ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần. Một điểm lợi từ mối quan hệ này chính là tín dụng chỉ định với giá rẻ. Nhưng kết quả lại là khoản nợ xấu khổng lồ cho nền kinh tế. Tuy trên danh nghĩa Chính phủ là người đứng ra gánh vác các khoản nợ, nhưng trên thực tế người dân mới là người phải đóng tiền trả nợ. Nếu g ...

Tài liệu được xem nhiều: