Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Số trang: 10
Loại file: doc
Dung lượng: 78.50 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Như chúng ta đã biết, cho đến nay trong văn kiện của Đảng đã chính thức sử dụng thuật ngữ sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước hàm ý thay thế cho sở hữu toàn dân và kinh tế quốc doanh. Việc dùng thuật ngữ sở hữu nhà nước hàm ý thay thế sở hữu toàn dân xuất phát từ 3 lập luận: Một là, trong suốt chặng đường xây dựng CNXH ở Việt Nam các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, không những không được quản lý chặt chẽ để bảo toàn...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nayNhư chúng ta đã biết, cho đến nay trong văn kiện của Đảng đã chính thức sửdụng thuật ngữ sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước hàm ý thay thế cho sở hữutoàn dân và kinh tế quốc doanh. Việc dùng thuật ngữ sở hữu nhà nước hàm ýthay thế sở hữu toàn dân xuất phát từ 3 lập luận: Một là, trong suốt chặng đườngxây dựng CNXH ở Việt Nam các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, không nhữngkhông được quản lý chặt chẽ để bảo toàn mà, thậm chí còn bị hao tổn và thấtthoát. Nguyên nhân của tình trạng trên được quy về là do thuật ngữ sở hữu toàndân dẫn đến hậu quả là không có ai sở hữu, tức là vô chủ. Hai là, nhà nước củaNước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước “ của dân, do dân, vìdân”, do đó nói sở hữu nhà nước, đã tất yếu bao hàm nghĩa toàn dân, đồng thờilại góp phần làm sáng tỏ hơn chủ thể sở hữu. Ba là, khi xác định chủ thế sở hữulà nhà nước, thì nhà nước ấy không có nghĩa chỉ có Chính phủ, mà nhà nước trongtrường hợp này bao hàm cả Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội và Đảng. Cho nên,khái niệm nhà nước trong trường hợp này không hề chỉ là một chủ thể đại diệncho một nhóm người, hay cho một giai cấp, mà cho nhân dân lao động nói chung.Thế nhưng, trên thực tế việc thay thế như trên chưa phải đã đạt được sự đồngthuận tuyệt đối, nhất là trong bối cảnh, các đối tượng vốn thuộc sở hữu toàndân, nay quy về cho sở hữu nhà nước vẫn tiếp tục bị quản lý lỏng lẻo, bị lãngphí, chiếm đoạt làm của riêng của cá nhân hoặc của nhóm người. Chính vì thếtrong giới khoa học cho đến nay vẫn tiếp tục tranh luận về chủ đề này và theosự tổng kết của đề tài KX.01.02 “ Sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nướctrong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ( Giaiđoạn 2001 2005)” thì hiện vẫn tồn tại 4 loại ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất, cho rằng, đây là hai khái niệm mặc dù tên gọi khác nhau • nhưng thống nhất và đồng quy với nhau. Cơ sở của lập luận này, thực ra vẫn khẳng định rằng sở hữu XHCN là sở hữu toàn dân, nhưng hình thức để thực hiện chủ thể sở hữu phải thông qua chủ thể đại diện là Nhà nước, nên gọi sở hữu nhà nước về thực chất vẫn là sở hữu toàn dân thông qua Nhà nước mới có thể thực hiện được quyền quản lý và quy ền đ ịnh đoạt được. Ý kiến thứ hai, cho rằng, có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu • nhà nước, nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay của nước ta,chỉ nên sử dụng khái niệm sở hữu nhà nước là đủ, còn sở hữu toàn dân chưa có điiều kiện thực hiện. Cơ sở sâu xa của lập luận này bắt nguồn từ chỗ cho rằng, chắc chắn tồn tại phạm trù sở hữu toàn dân, nhưng phạm trù đó chỉ xuất hiện hay đúng hơn chỉ đầy đủ các tiền đề để xuất hiện khi xây dựng xong CNXH. Ý kiến thứ ba, cho rằng, sở hữu toàn dân hoàn toàn khác với sở hữu nhà• nước. Ở đây tác giả ( Nguyễn Quốc Tuấn- trích dẫn từ cuốn sách” Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trương định hướng XHCN của các tác giả Nguyễn Cúc và Kim Văn Chính”) lập luận “ chiếm hữu công cộng có hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và s ở hữu nhà nước. Toàn dân và nhà nước là hai khái niệm khác nhau nên s ở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước cũng là hai khái niệm có nội hàm và ngoại diên khác nhau, chúng có sự thống nhất chứ không đồng nhất…Nó thay mặt cho nhân dân nhưng không phải nhân dân. Nó quản lý xã hội nhưng không phải xã hội. Nhà nước nhân danh toàn dân chứ không phải toàn dân”. Theo chúng tôi, ý kiến này đã đồng nhất khái niệm chiếm hữu với sở hữu, trong khi lý luận khoa học kinh tế khẳng định chiếm hữu là một khía cạnh của sở hữu. Hơn thế nữa, ý kiến này lại đem chia nhỏ thuật ngữ ra nhằm hàm ý thay cho thuật ngữ để vạch ra sự khác nhau giữa chúng. Sở hữu toàn dân và toàn dân là khác nhau. Sở hữu nhà nước và nhà nước đương nhiên không phải là một, tương tự như vậy, thay mặt nhân dân đương nhiên là khác nhân dân, quản lý xã hội đương nhiên không phải là xã hội… Ý kiến thứ tư, theo như các tác giả của cuốn sách đã trích dẫn, vừa muốn• phân biệt sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước, nhưng lại vừa muốn đồng nhất chúng. Từ đó, các tác giả của cuốn sách đã đi đến khẳng đ ịnh: đây là loại ý kiến hàm chứa mâu thuẫn nội tại. Để tăng tính thuyết phục của phê phán này các tác giả của cuốn sách đã đưa ra hàng loạt trích dẫn liên quan đến loại ý kiến này:” Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu là nhà nước và đối tượng sở hữu là toàn bộ của cải vật chất thuộc chủ quyền của một quốc gia của một nước”. Về mặt lý luận, sở hữu toàn dân là một loại hình sở hữu cơ bản của xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa…”.” Nhà nước ta là nhà nước của dân, vì dân và do dân lập nên, do bản chất ấy nhà nước ta đủ tư cách đại diện cho toàn dân và trở thành chủ sở ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay Sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nayNhư chúng ta đã biết, cho đến nay trong văn kiện của Đảng đã chính thức sửdụng thuật ngữ sở hữu nhà nước, kinh tế nhà nước hàm ý thay thế cho sở hữutoàn dân và kinh tế quốc doanh. Việc dùng thuật ngữ sở hữu nhà nước hàm ýthay thế sở hữu toàn dân xuất phát từ 3 lập luận: Một là, trong suốt chặng đườngxây dựng CNXH ở Việt Nam các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, không nhữngkhông được quản lý chặt chẽ để bảo toàn mà, thậm chí còn bị hao tổn và thấtthoát. Nguyên nhân của tình trạng trên được quy về là do thuật ngữ sở hữu toàndân dẫn đến hậu quả là không có ai sở hữu, tức là vô chủ. Hai là, nhà nước củaNước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước “ của dân, do dân, vìdân”, do đó nói sở hữu nhà nước, đã tất yếu bao hàm nghĩa toàn dân, đồng thờilại góp phần làm sáng tỏ hơn chủ thể sở hữu. Ba là, khi xác định chủ thế sở hữulà nhà nước, thì nhà nước ấy không có nghĩa chỉ có Chính phủ, mà nhà nước trongtrường hợp này bao hàm cả Chính phủ, Nhà nước, Quốc hội và Đảng. Cho nên,khái niệm nhà nước trong trường hợp này không hề chỉ là một chủ thể đại diệncho một nhóm người, hay cho một giai cấp, mà cho nhân dân lao động nói chung.Thế nhưng, trên thực tế việc thay thế như trên chưa phải đã đạt được sự đồngthuận tuyệt đối, nhất là trong bối cảnh, các đối tượng vốn thuộc sở hữu toàndân, nay quy về cho sở hữu nhà nước vẫn tiếp tục bị quản lý lỏng lẻo, bị lãngphí, chiếm đoạt làm của riêng của cá nhân hoặc của nhóm người. Chính vì thếtrong giới khoa học cho đến nay vẫn tiếp tục tranh luận về chủ đề này và theosự tổng kết của đề tài KX.01.02 “ Sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nướctrong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ( Giaiđoạn 2001 2005)” thì hiện vẫn tồn tại 4 loại ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất, cho rằng, đây là hai khái niệm mặc dù tên gọi khác nhau • nhưng thống nhất và đồng quy với nhau. Cơ sở của lập luận này, thực ra vẫn khẳng định rằng sở hữu XHCN là sở hữu toàn dân, nhưng hình thức để thực hiện chủ thể sở hữu phải thông qua chủ thể đại diện là Nhà nước, nên gọi sở hữu nhà nước về thực chất vẫn là sở hữu toàn dân thông qua Nhà nước mới có thể thực hiện được quyền quản lý và quy ền đ ịnh đoạt được. Ý kiến thứ hai, cho rằng, có sự khác nhau giữa sở hữu toàn dân và sở hữu • nhà nước, nhưng trong thời kỳ phát triển hiện nay của nước ta,chỉ nên sử dụng khái niệm sở hữu nhà nước là đủ, còn sở hữu toàn dân chưa có điiều kiện thực hiện. Cơ sở sâu xa của lập luận này bắt nguồn từ chỗ cho rằng, chắc chắn tồn tại phạm trù sở hữu toàn dân, nhưng phạm trù đó chỉ xuất hiện hay đúng hơn chỉ đầy đủ các tiền đề để xuất hiện khi xây dựng xong CNXH. Ý kiến thứ ba, cho rằng, sở hữu toàn dân hoàn toàn khác với sở hữu nhà• nước. Ở đây tác giả ( Nguyễn Quốc Tuấn- trích dẫn từ cuốn sách” Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trương định hướng XHCN của các tác giả Nguyễn Cúc và Kim Văn Chính”) lập luận “ chiếm hữu công cộng có hai hình thức cơ bản là sở hữu toàn dân và s ở hữu nhà nước. Toàn dân và nhà nước là hai khái niệm khác nhau nên s ở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước cũng là hai khái niệm có nội hàm và ngoại diên khác nhau, chúng có sự thống nhất chứ không đồng nhất…Nó thay mặt cho nhân dân nhưng không phải nhân dân. Nó quản lý xã hội nhưng không phải xã hội. Nhà nước nhân danh toàn dân chứ không phải toàn dân”. Theo chúng tôi, ý kiến này đã đồng nhất khái niệm chiếm hữu với sở hữu, trong khi lý luận khoa học kinh tế khẳng định chiếm hữu là một khía cạnh của sở hữu. Hơn thế nữa, ý kiến này lại đem chia nhỏ thuật ngữ ra nhằm hàm ý thay cho thuật ngữ để vạch ra sự khác nhau giữa chúng. Sở hữu toàn dân và toàn dân là khác nhau. Sở hữu nhà nước và nhà nước đương nhiên không phải là một, tương tự như vậy, thay mặt nhân dân đương nhiên là khác nhân dân, quản lý xã hội đương nhiên không phải là xã hội… Ý kiến thứ tư, theo như các tác giả của cuốn sách đã trích dẫn, vừa muốn• phân biệt sở hữu toàn dân với sở hữu nhà nước, nhưng lại vừa muốn đồng nhất chúng. Từ đó, các tác giả của cuốn sách đã đi đến khẳng đ ịnh: đây là loại ý kiến hàm chứa mâu thuẫn nội tại. Để tăng tính thuyết phục của phê phán này các tác giả của cuốn sách đã đưa ra hàng loạt trích dẫn liên quan đến loại ý kiến này:” Sở hữu nhà nước là hình thức sở hữu mà chủ thể sở hữu là nhà nước và đối tượng sở hữu là toàn bộ của cải vật chất thuộc chủ quyền của một quốc gia của một nước”. Về mặt lý luận, sở hữu toàn dân là một loại hình sở hữu cơ bản của xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa…”.” Nhà nước ta là nhà nước của dân, vì dân và do dân lập nên, do bản chất ấy nhà nước ta đủ tư cách đại diện cho toàn dân và trở thành chủ sở ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
quản lý kinh tế phương thức quản lý quy định nhà nước bộ máy nhà nước quy trình quản lý kinh tế quản lýGợi ý tài liệu liên quan:
-
BÀI THU HOẠCH QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÍ GIÁO DỤC
16 trang 308 0 0 -
197 trang 275 0 0
-
Tổng luận Giải pháp chính sách phát triển nền kinh tế số
46 trang 239 1 0 -
9 trang 231 0 0
-
Môi trường sinh thái và đổi mới quản lý kinh tế: Phần 2
183 trang 212 0 0 -
Giáo trình Nguyên lý quản lý kinh tế: Phần 1
102 trang 207 2 0 -
42 trang 168 0 0
-
12 trang 158 0 0
-
Tiểu luận Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
20 trang 153 0 0 -
68 trang 151 0 0