Danh mục

SỐNG VÀ CHẾT - Chương 6

Số trang: 18      Loại file: pdf      Dung lượng: 202.92 KB      Lượt xem: 19      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Phí tải xuống: 18,000 VND Tải xuống file đầy đủ (18 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Chương 6 Ngày xưa, Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn 3 tháng, Ngài đã nói cho Tôn giả A Nan và chư đệ tử xuất gia cũng như tại gia rằng: Ngài không còn ở đời bao lâu nữa và Ngài sẽ vào vô dư Niết Bàn. Khi chúng Tăng nghe vậy, nhiều người đã buồn bã khóc than. Có người bảo rằng tại sao Đức Phật ở đời ngắn ngủi thế; nhưng ma ba tuần thì luôn luôn muốn Đức Phật nên rời khỏi chốn nầy, để chúng có cơ hội quấy nhiễu loài người, mà chúng thường biện...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SỐNG VÀ CHẾT - Chương 6 Chương 6 Ngày xưa, Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn 3 tháng, Ngài đã nói cho Tôn giả A Nan và chư đệ tử xuất gia cũng như tại gia rằng: Ngài không còn ở đời bao lâu nữa và Ngài sẽ vào vô dư Niết Bàn. Khi chúng Tăng nghe vậy, nhiều người đã buồn bã khóc than. Có người bảo rằng tại sao Đức Phật ở đời ngắn ngủi thế; nhưng ma ba tuần thì luôn luôn muốn Đức Phật nên rời khỏi chốn nầy, để chúng có cơ hội quấy nhiễu loài người, mà chúng thường biện minh là theo lời hứa của Đức Phật; rằng sau khi việc độ sanh đã mãn, Ngài phải vào Niết Bàn. Ngài tự biết mình phải làm gì khi báo thân nầy đã mãn, không cần ai nhắc nhở, Ngài cũng sẽ ra đi. Có như thế chư Tăng, Ni và Phật Tử mới cố gắng mà hành trì giới luật, nương vào đó mà tu học để đi đến quả vị giải thoát. Đức Phật cũng đã căn dặn rất rõ ràng trong kinh Di Giáo, những gì muốn nói Ngài đã nói; những gì đã dạy, Ngài đã dạy và trạng thái Niết Bàn là trạng thái của an vui tịch tịnh, như củi hết thì lửa tắt vậy thôi. Ngày nay có không biết bao nhiêu người cứ cố gắng tìm hiểu về Niết Bàn; nhưng điều ấy hẳn vô ích. Đức Phật vẫn thường hay dạy rằng: Ví như một mũi tên độc bị bắn vào một kẻ khác. Điều quan trọng và trước hết là phải rút mũi tên độc ra khỏi thân thể người bị nạn, không cần biết nguyên nhân mũi tên ấy từ đâu bắn tới, mũi tên ấy làm bằng gì và tẩm thuốc độc nào. Hoặc giả hỏi tại sao người kia lại bị tên độc v.v... tất cả đều vô nghĩa. Nếu cứ dùng thì giờ để hỏi cho ra ngọn ngành những câu hỏi nầy, thì thuốc độc đã ngấm sâu vào người đó, họ sẽ bị chết đi mất. Vậy điều quan trọng là phải cứu mạng sống trước, chứ không phải để truy cứu lý do. Con người của chúng ta cũng thế, sanh tử luân hồi còn chưa khỏi, giống như một mũi tên. Dục vọng và ngũ dục giống như thuốc độc; thế mà chúng ta đã ý thức được gì đâu, trong khi sanh tử cận kề, không lo giải quyết, mà lo đi tìm Niết Bàn, quả là điều xa lạ viển vông. Có nơi Đức Phật cũng trả lời về Niết Bàn; nhưng rất đơn giản, không đào sâu vào nội dung. Vì Ngài thấy rằng không cần thiết lắm. Cũng như một người khát nước, người ấy sẽ uống một ly nước, thấy đã khát vô cùng. Một người đứng bên cạnh hỏi người kia rằng: Uống nước đã khát như thế nào, thì chắc chắn người uống nước không trả lời được và dẫu có diễn tả như thế nào đi chăng nữa; người không uống nước sẽ không cảm nhận được sự đã khát như người đã uống nước. Niết Bàn cũng tương tự như thế ấy. Trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật cũng đã dạy cho chư Tăng về phép tứ y, tức 4 nơi nương tựa cần phải có ở vào những đời sau như: - Y pháp bất y nhơn - Y nghĩa bất y ngữ - Y trí bất y thức - Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa. Điều thứ nhất: Y pháp bất y nhơn có nghĩa là nương vào giáo pháp để tu học; không nên nương vào người để theo đạo. Người ở đây có thể là Thầy dạy học, Thầy Bổn Sư, chư vị Tổ, chư vị A La Hán, Bồ Tát, hoặc giả ngay cả Đức Phật nữa. Lý do là con người vẫn có sai có đúng, có được có mất, có vi tế nghiệp, có phước đức, có lợi căn v.v... tất cả thân nầy do tứ đại giả hợp mà thành. Do vậy mà cũng sẽ bị phân ly, chi phối bởi những sự vô thường, khổ, không và vô ngã. Chỉ có giáo pháp mới là chân lý. Chân lý bao giờ cũng bất biến và không bị thay đổi bởi thời gian cũng như không gian. Do vậy mà Đức Phật cũng thường hay dạy rằng: Tất cả lời dạy trong kinh điển cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng thôi. Ngón tay là phương tiện, chỉ có mặt trăng mới là chân lý. Mặt trăng cho ánh sáng, cho sự hiểu biết cho con người. Trong khi đó ngón tay lại xê dịch, biến đổi. Ngón tay ví cho chư Tăng, chư Phật, chư Tổ... chỉ có đời sống đức hạnh, phương pháp tu học của chư Tăng mới đáng tôn kính mà thôi. Còn vóc dáng của vị Tăng ấy như thế nào, đẹp, xấu, thô thiển, trang trọng v.v... không thành vấn đề nữa. Đây là lời dạy vô cùng quan trọng trong giáo lý Đạo Phật. Ngày nay ở vào thời mạt pháp nầy, nhiều người đi tìm những vị Giáo chủ, các vị cao Tăng để nương nhờ; nhưng nếu không hiểu tinh thần y pháp bất y nhơn như ở trên thì một mai, nếu vị Giáo chủ ấy, hoặc các bậc Tổ Sư ấy có một hành động gì đó, có một lỗi lầm gì đó, con người sẽ đâm ra thất vọng, chán chường, rồi bỏ chùa, bỏ Thầy, bỏ đạo. Không những thế, khi ra ngoài còn hủy bán, thêu dệt nói xấu không tiếc lời. Vì tất cả đều đặt niềm tin nơi con người chứ không phải nương tựa vào pháp để tu. Điều nầy nên thận trọng và phải tế nhị mới tìm ra được hướng đi cho chính mình. Y nghĩa bất y ngữ có nghĩa là y cứ vào ý của kinh điển mà tu hành, không nên nương vào lời nói. Vì lẽ lời nói có lúc đúng, lúc sai, lúc phương tiện, lúc quyền thừa, lúc thời điểm nầy, lúc thời điểm khác, dùng phương tiện để chuyên chở mọi chúng sanh đến bờ bến giác ngộ giải thoát; không vì phương tiện mà quên đi mục đích chính ấy. Chúng sanh có thể dùng nhiều phương tiện ...

Tài liệu được xem nhiều: