![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Sử dụng công nghệ nghịch đảo địa thống kê kết hợp với dữ liệu địa chấn 3D để khoanh vùng các lớp cát mỏng trong môi trường trầm tích châu thổ (delta)
Số trang: 8
Loại file: pdf
Dung lượng: 471.94 KB
Lượt xem: 9
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Phương pháp địa chấn được sử dụng phổ biến trong công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí nhưng khi ứng dụng ở môi trường trầm tích châu thổ (delta) chứa các lớp cát mỏng đứt đoạn thì các mạch sóng ghi được thường mờ nhạt, tính liên tục cũng như cường độ phản xạ giảm mạnh nên rất khó nhận diện ranh giới giữa các tầng chứa sản phẩm. Bài viết trình bày phương pháp thực hiện và kết quả của phương pháp luận trong việc khoanh giới hạn phân bố các lớp cát mỏng trong trầm tích delta.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng công nghệ nghịch đảo địa thống kê kết hợp với dữ liệu địa chấn 3D để khoanh vùng các lớp cát mỏng trong môi trường trầm tích châu thổ (delta) PETROVIETNAM TẠP CHÍ DẦU KHÍ Số 9 - 2019, trang 59 - 66 ISSN-0866-854X SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ NGHỊCH ĐẢO ĐỊA THỐNG KÊ KẾT HỢP VỚI DỮ LIỆU ĐỊA CHẤN 3D ĐỂ KHOANH VÙNG CÁC LỚP CÁT MỎNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRẦM TÍCH CHÂU THỔ (DELTA) Tóm tắt Phương pháp địa chấn được sử dụng phổ biến trong công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí nhưng khi ứng dụng ở môi trường trầm tích châu thổ (delta) chứa các lớp cát mỏng đứt đoạn thì các mạch sóng ghi được thường mờ nhạt, tính liên tục cũng như cường độ phản xạ giảm mạnh nên rất khó nhận diện ranh giới giữa các tầng chứa sản phẩm. Đây là trở ngại rất lớn khi khoanh vùng các cồn cát bị chôn vùi sâu có chứa sản phẩm dầu khí, dẫn đến xác định sai vị trí giếng khai thác (gây ra số lượng giếng khô cao, chi phí tăng...). Bể trầm tích San Jorge (Argentina) được khai thác từ năm 1907, chủ yếu chứa các lớp sét ao hồ phân lớp dày và vùng ngập lụt, xen kẽ bởi các lớp cát bồi tích mỏng, không liên tục, chủ yếu nhỏ hơn 4m, bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. Sau thời gian khai thác rất dài cho thấy 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giếng khai thác chỉ đạt 13.000m3/giếng. Số lượng giếng khô hoặc không kinh tế được xác định là do vị trí đặt giếng khoan trước kia dựa vào tài liệu địa chấn 2D chất lượng thấp. Cuối thế kỷ XX, sau khi ứng dụng công nghệ đảo ngược địa thống kê dựa trên phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên vào xử lý số liệu địa chấn 3D, các sai lầm về tư duy lẫn kỹ thuật trong minh giải địa vật lý đã được khắc phục. Hiện nay, sản lượng khai thác ở bể San Jorge chiếm 32% tổng sản lượng khí đốt của Argentina. 1. Giới thiệu bị thay đổi bởi sự xen kẽ các lớp tuff vụn mỏng, có nơi bề dày đến vài mét. Cả độ rỗng tại chỗ (insitu- porosity) Bể trầm tích San Jorge được đưa vào khai thác từ năm và độ thấm của thân cát bị chi phối bởi thành phần tuff 1907, đến nay vẫn chiếm 32% tổng sản lượng khai thác và sự biến dạng cấu tạo sau đó. Ở đây, cát chứa dầu liên dầu khí của Argentina. Quá trình tiến hóa địa chất thời kỳ quan đến thành tạo Bajo Barreal (tuổi Cretaceous giữa và đầu của bể trầm tích này là do liên quan đến cùng một Cretaceous muộn) bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. quá trình tạo rift mở rộng Đại Tây Dương xảy ra vào đầu kỷ Jurassic. Các hoạt động đứt gãy và quá trình bào mòn Hình 1 thể hiện khoảng 450 giếng khai thác trong địa phương đi kèm theo sự tiến triển của rift, tạo thuận cánh Nam của vùng Canadon de la Escondida, được phân lợi cho lắng đọng trầm tích lục nguyên không có nguồn bố dưới dạng các cụm phân tán. Sự phân bố này có thể gốc biển xảy ra chủ yếu trong kỷ Cretaceous sớm. Tại thời dựa trên tính chất không liên tục theo phương nằm ngang điểm đó, chế độ địa kiến tạo Andean trở thành tác nhân của lớp chứa gây ra song cũng có thể do phương pháp chính cung cấp nguồn vật liệu vụn núi lửa tập trung trong chọn vị trí đặt giếng dựa trên kết quả phát triển vành đai cột trầm tích; đồng thời cũng là tác nhân tạo ra sự có mặt đặt giếng đón đầu giới hạn diện tích mỏ. Trong quá khứ phổ biến các xâm nhập batholic trong khu vực này. Trầm vị trí đặt giếng chỉ dựa trên việc xem xét cấu trúc tầng tích vụn (clastic) lắng đọng trong khu vực tạo hydrocar- triển vọng (structural play) từ các nghiên cứu địa chất trên bon đặc trưng bằng sét phân lớp dày có nguồn gốc ao hồ mặt đất và đôi khi từ kết quả thăm dò địa chấn 2D. Bởi và vùng ngập lụt xen kẽ với các thân cát chứa dầu khí khá vì trong thời gian đó, các chuyên gia địa chất có quá ít mỏng, thưa thớt. thông tin về sự có mặt của cát ở dưới sâu hoặc về tính liên tục theo phương nằm ngang của thân cát đó. Theo thống Sự tập trung của các thân cát mỏng tương đối nhỏ kê, 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng trong cột trầm tích được giải thích bằng các cấu trúc bồi số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giến ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sử dụng công nghệ nghịch đảo địa thống kê kết hợp với dữ liệu địa chấn 3D để khoanh vùng các lớp cát mỏng trong môi trường trầm tích châu thổ (delta) PETROVIETNAM TẠP CHÍ DẦU KHÍ Số 9 - 2019, trang 59 - 66 ISSN-0866-854X SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ NGHỊCH ĐẢO ĐỊA THỐNG KÊ KẾT HỢP VỚI DỮ LIỆU ĐỊA CHẤN 3D ĐỂ KHOANH VÙNG CÁC LỚP CÁT MỎNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRẦM TÍCH CHÂU THỔ (DELTA) Tóm tắt Phương pháp địa chấn được sử dụng phổ biến trong công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí nhưng khi ứng dụng ở môi trường trầm tích châu thổ (delta) chứa các lớp cát mỏng đứt đoạn thì các mạch sóng ghi được thường mờ nhạt, tính liên tục cũng như cường độ phản xạ giảm mạnh nên rất khó nhận diện ranh giới giữa các tầng chứa sản phẩm. Đây là trở ngại rất lớn khi khoanh vùng các cồn cát bị chôn vùi sâu có chứa sản phẩm dầu khí, dẫn đến xác định sai vị trí giếng khai thác (gây ra số lượng giếng khô cao, chi phí tăng...). Bể trầm tích San Jorge (Argentina) được khai thác từ năm 1907, chủ yếu chứa các lớp sét ao hồ phân lớp dày và vùng ngập lụt, xen kẽ bởi các lớp cát bồi tích mỏng, không liên tục, chủ yếu nhỏ hơn 4m, bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. Sau thời gian khai thác rất dài cho thấy 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giếng khai thác chỉ đạt 13.000m3/giếng. Số lượng giếng khô hoặc không kinh tế được xác định là do vị trí đặt giếng khoan trước kia dựa vào tài liệu địa chấn 2D chất lượng thấp. Cuối thế kỷ XX, sau khi ứng dụng công nghệ đảo ngược địa thống kê dựa trên phương pháp mô phỏng ngẫu nhiên vào xử lý số liệu địa chấn 3D, các sai lầm về tư duy lẫn kỹ thuật trong minh giải địa vật lý đã được khắc phục. Hiện nay, sản lượng khai thác ở bể San Jorge chiếm 32% tổng sản lượng khí đốt của Argentina. 1. Giới thiệu bị thay đổi bởi sự xen kẽ các lớp tuff vụn mỏng, có nơi bề dày đến vài mét. Cả độ rỗng tại chỗ (insitu- porosity) Bể trầm tích San Jorge được đưa vào khai thác từ năm và độ thấm của thân cát bị chi phối bởi thành phần tuff 1907, đến nay vẫn chiếm 32% tổng sản lượng khai thác và sự biến dạng cấu tạo sau đó. Ở đây, cát chứa dầu liên dầu khí của Argentina. Quá trình tiến hóa địa chất thời kỳ quan đến thành tạo Bajo Barreal (tuổi Cretaceous giữa và đầu của bể trầm tích này là do liên quan đến cùng một Cretaceous muộn) bị chôn vùi tới độ sâu 1.200 - 2.000m. quá trình tạo rift mở rộng Đại Tây Dương xảy ra vào đầu kỷ Jurassic. Các hoạt động đứt gãy và quá trình bào mòn Hình 1 thể hiện khoảng 450 giếng khai thác trong địa phương đi kèm theo sự tiến triển của rift, tạo thuận cánh Nam của vùng Canadon de la Escondida, được phân lợi cho lắng đọng trầm tích lục nguyên không có nguồn bố dưới dạng các cụm phân tán. Sự phân bố này có thể gốc biển xảy ra chủ yếu trong kỷ Cretaceous sớm. Tại thời dựa trên tính chất không liên tục theo phương nằm ngang điểm đó, chế độ địa kiến tạo Andean trở thành tác nhân của lớp chứa gây ra song cũng có thể do phương pháp chính cung cấp nguồn vật liệu vụn núi lửa tập trung trong chọn vị trí đặt giếng dựa trên kết quả phát triển vành đai cột trầm tích; đồng thời cũng là tác nhân tạo ra sự có mặt đặt giếng đón đầu giới hạn diện tích mỏ. Trong quá khứ phổ biến các xâm nhập batholic trong khu vực này. Trầm vị trí đặt giếng chỉ dựa trên việc xem xét cấu trúc tầng tích vụn (clastic) lắng đọng trong khu vực tạo hydrocar- triển vọng (structural play) từ các nghiên cứu địa chất trên bon đặc trưng bằng sét phân lớp dày có nguồn gốc ao hồ mặt đất và đôi khi từ kết quả thăm dò địa chấn 2D. Bởi và vùng ngập lụt xen kẽ với các thân cát chứa dầu khí khá vì trong thời gian đó, các chuyên gia địa chất có quá ít mỏng, thưa thớt. thông tin về sự có mặt của cát ở dưới sâu hoặc về tính liên tục theo phương nằm ngang của thân cát đó. Theo thống Sự tập trung của các thân cát mỏng tương đối nhỏ kê, 95% tổng sản lượng đời mỏ chỉ thu được từ 5% tổng trong cột trầm tích được giải thích bằng các cấu trúc bồi số giếng đã khoan, sản lượng trung bình của giến ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tạp chí Dầu khí Khai thác dầu khí Bể trầm tích San Jorge Thăm dò dầu khí Trầm tích deltaTài liệu liên quan:
-
6 trang 362 0 0
-
8 trang 73 0 0
-
27 trang 45 0 0
-
10 trang 40 0 0
-
Nghiên cứu khả năng đầu tư nhà máy sản xuất ethyl acetate từ ethanol
6 trang 38 0 0 -
Bài giảng Công nghệ khai thác dầu khí - PGS.TS. Lê Phước Hảo
969 trang 38 0 0 -
111 trang 35 0 0
-
31 trang 34 0 0
-
1 trang 34 0 0
-
81 trang 33 0 0