Sự phát triển của hệ thống điều khiển tàu điện
Số trang: 25
Loại file: pdf
Dung lượng: 227.01 KB
Lượt xem: 12
Lượt tải: 0
Xem trước 3 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hệ thống vận chuyển hành khách bằng tàu điện là xu hướng phát triển tất yếu tại các thành phố lớn trên thế giới. Tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đang triển khai xây dựng các hệ thống này với công nghệ tự động điều khiển tiên tiến. Bài báo giúp độc giả có cái nhìn tổng thể về quá trình hình thành và phát triển, cũng như xu hướng phát triển của các hệ thống điều khiển tàu điện - bộ phận không thể thiếu trong hệ thống metro....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự phát triển của hệ thống điều khiển tàu điện Sự phát triển của hệ thống điều khiển tàu điện Tóm tắt Hệ thống vận chuyển hành khách bằng tàu điện là xu hướng phát triển tất yếu tại các thành phố lớn trên thế giới. Tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đang triển khai xây dựng các hệ thống này với công nghệ tự động điều khiển tiên tiến. Bài báo giúp độc giả có cái nhìn tổng thể về quá trình hình thành và phát triển, cũng như xu hướng phát triển của các hệ thống điều khiển tàu điện - bộ phận không thể thiếu trong hệ thống metro. Mở đầu Vận tải hành khách bằng tàu điện chạy trên đường ray là phương thức vận chuyển có hiệu quả nhất và đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều thành phố lớn (Tokyo, London, Moscow, …) tại nhiều quốc gia (Nhật Bản, Anh, Nga, …). Ưu điểm của vận chuyển bằng tàu điện là năng lực chuyên chở lớn (đoàn tàu moscow 8 toa có sức chuyển chở 2.160 hành khách), tần số hoạt động của đoàn tàu cao (với metro moscow cho phép vận hành 42-45 cặp tàu trong 1 giờ trên 2 đường ray độc lập theo 2 hướng [5]) và điều chỉnh được vận tốc của đoàn tàu (vận tốc trung bình của metro moscow là 40km/h, nhưng vận tốc tối đa - 80km/h [5]). Hệ thống bao gồm các thành phần chính: nhà ga, thiết bị thang cuốn - thang bộ, đường hầm, tuyến ray chính, tuyến ray nhánh, tuyến ray quay vòng, tàu điện, nhà bảo dưỡng, trạm cấp điện, quạt gió - thông khí, cấp - thoát nước, được gọi là hệ thống metro, tên đầy đủ của nó tại Pháp - métropoliain, tại Nga, Nhật và nhiều nước SNG - metropaliten; nó cũng có tên gọi khác như tại Anh - underground, tại Mỹ - Subway, tại Đức - Untergrundbahn/U - Bahn, … Các tuyến đường ray không chỉ xây dựng trên mặt đất mà có thể được xây dựng ở trên cao hay ngầm dưới đất, nhờ đó tiết kiệm được diện tích lớn để xây dựng khu chung cư, trung tâm thương mại, nhà văn hóa, khu giải trí - thể thao, … và do đó tạo ra mạng lưới giao thông liên kết giữa các khu vực này lại với nhau trên toàn thành phố. Các tuyến ray ngầm thường được lựa chọn để xây dựng nhiều nhất, vì nó không phá hủy kiến trúc quy hoạch trước đó của thành phố, không hạn chế chuyển động của các phương tiện vận tải trên mặt đất cũng như người đi bộ, mà góp phần giảm tiếng ồn, giảm rung chấn của các tòa nhà gây ra do chuyển động của tàu. Các tuyến đường ray ngầm được xây dựng dưới lòng đất ở độ sâu 10- 50m nhưng phổ biến nhất là ở độ sâu 10-15m vì việc xây dựng sẽ dễ dàng hơn, chi phí xây dựng, cũng như chi phí vận hành rẻ hơn. Hơn nữa hành khách sẽ mất ít thời gian ra/vào nhà ga để lên/xuống tàu. Các tuyến ray trên mặt đất thường được bố trí xây dựng ở những khu vực thành phố có mật độ các công trình xây dựng thấp và cần phải xây dựng các hàng rào xung quanh đường ray để đảm bảo an toàn chuyển động khi vận hành tàu. Các tuyến ray trên cao thường được xây dựng ở những đoạn liên quan đến địa hình, đặc biệt khi băng qua đường bộ, đường sắt hiện có, qua sông - kênh … các chướng ngại vật. Năm 1890, tại London - nước Anh bắt đầu xây dựng hệ thống metro đầu tiên với sức kéo điện của đầu máy chạy bằng điện (trước đó, năm 1860 đã xây dựng tuyến ray ngầm, đoàn tàu sử dụng sức kéo hơi nước). Còn tại New York - Mỹ, năm 1890 các tuyến đường sắt cũng được chuyển đổi sang sức kéo điện. (năm 1868 cũng đã xây dựng những đoạn đường sắt trên cao với sức kéo thô sơ bằng dây cáp và thay thế bằng sức kéo đầu máy hơi nước vào năm 1871). Châu Âu đi đầu trong việc xây dựng hệ thống metro: Budapest - Hungary xây dựng năm 1896; Paris- Pháp xây dựng năm 1900, đây cũng là năm mở cửa triển lãm công nghiệp trên thế giới; Sau đó một loạt các thành phố khác đã đưa vào khai thác hệ thống metro: Madrid - Tây Ban Nha vận hành vào năm 1919; Barcelona - Tây Ban Nha vận hành vào năm 1924; Athens - Hy Lạp điện khí hóa năm 1904 và nâng cấp hệ thống vào năm 2000; Tokyo - Nhật Bản vận hành vào năm 1927, Osla - Na Uy vận hành tuyến dường sắt ngầm đầu tiên tại Bắc Âu năm 1928 và nâng cấp hệ thống vào năm 1966, Stockhom - Thụy điển vận hành vào năm 1950, Moscow - Nga vận hành năm 1935, Saint-Persburg vận hành năm 1955, Kiev - Ukraina vận hành năm 1960, Tbilisi - Georgia năm 1966, Baku - Azerbaiijani năm 1967 … Sự phát triển của khoa học công nghệ nhanh chóng được áp dụng vào ngành đường sắt để giảm sức lao động của con người thông qua việc tạo ra và sử dụng các máy móc, thiết bị, các hệ thống tự động nhằm điều khiển và kiểm soát quá trình chuyển động của các tàu trên tuyến đường ray. Trong thời kỳ đầu, khoảng trước những năm 1900, người ta chủ yếu tập trung vào nghiên cứu thiết kế hệ thống điều khiển chạy tàu để trợ giúp/hoặc thay thế người lái. Hệ thống điều khiển chạy tàu (HĐTT) là thành phần cơ bản của hệ thống điều khiển chuyển động các đoàn tàu trên tuyến (HĐCT). Nó được thiết kế để tự động hóa các quá trình sau: * Xác định thời gian dừng tàu tại sân/ke ga; * Xác định thời gian chạy tàu trên khu gian (giữa hai sân ga); * Mở và đóng cửa hành khách ra/vào vào trên tàu; * Khởi hành chạy tàu từ sân ga; * Lựa chọn các chế độ điều khiển để thực hiện chạy tàu theo thời gian quy định; * Thực hiện hãm để giảm tốc độ của tàu, đáp ứng giới hạn vận tốc trên tuyến; * Hãm dừng tàu tại sân ga; * Thông báo cho người lái về chế độ, trạng thái của HĐTT; * Cung cấp thông tin cần thiết cho hành khách (ga khởi hành, ga tiếp theo, …); * Cung cấp tình trạng hiện tại của tàu cho trung tâm điều độ tàu (HĐĐT). HĐTT liên hệ trực tiếp với hệ thống an toàn chạy tàu (HACT). Các lệnh điều khiển của HACT luôn có mức ưu tiên cao nhất, nên cần phải lưu ý khi xây dựng HĐTT sao cho không thực hiện dư thừa lệnh điều khiển. HĐTT cũng liên kết với thiết bị trên tàu, đó là thiết bị tự động khởi động, cơ cấu chấp hành, bộ điều chỉnh vận tốc, cơ cấu hãm, thiết bị chống trượt và chống bó phanh, vì vậy chúng sẽ liên quan mật thiết đến cấu trúc và thuật toán cài đặt trong HĐTT. Sau này, khoảng sau năm 1965, khi mà công nghê bán dẫn, vi xử lý phát triển mạnh mẽ, đã tạo điều ki ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự phát triển của hệ thống điều khiển tàu điện Sự phát triển của hệ thống điều khiển tàu điện Tóm tắt Hệ thống vận chuyển hành khách bằng tàu điện là xu hướng phát triển tất yếu tại các thành phố lớn trên thế giới. Tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đang triển khai xây dựng các hệ thống này với công nghệ tự động điều khiển tiên tiến. Bài báo giúp độc giả có cái nhìn tổng thể về quá trình hình thành và phát triển, cũng như xu hướng phát triển của các hệ thống điều khiển tàu điện - bộ phận không thể thiếu trong hệ thống metro. Mở đầu Vận tải hành khách bằng tàu điện chạy trên đường ray là phương thức vận chuyển có hiệu quả nhất và đã được áp dụng rộng rãi ở nhiều thành phố lớn (Tokyo, London, Moscow, …) tại nhiều quốc gia (Nhật Bản, Anh, Nga, …). Ưu điểm của vận chuyển bằng tàu điện là năng lực chuyên chở lớn (đoàn tàu moscow 8 toa có sức chuyển chở 2.160 hành khách), tần số hoạt động của đoàn tàu cao (với metro moscow cho phép vận hành 42-45 cặp tàu trong 1 giờ trên 2 đường ray độc lập theo 2 hướng [5]) và điều chỉnh được vận tốc của đoàn tàu (vận tốc trung bình của metro moscow là 40km/h, nhưng vận tốc tối đa - 80km/h [5]). Hệ thống bao gồm các thành phần chính: nhà ga, thiết bị thang cuốn - thang bộ, đường hầm, tuyến ray chính, tuyến ray nhánh, tuyến ray quay vòng, tàu điện, nhà bảo dưỡng, trạm cấp điện, quạt gió - thông khí, cấp - thoát nước, được gọi là hệ thống metro, tên đầy đủ của nó tại Pháp - métropoliain, tại Nga, Nhật và nhiều nước SNG - metropaliten; nó cũng có tên gọi khác như tại Anh - underground, tại Mỹ - Subway, tại Đức - Untergrundbahn/U - Bahn, … Các tuyến đường ray không chỉ xây dựng trên mặt đất mà có thể được xây dựng ở trên cao hay ngầm dưới đất, nhờ đó tiết kiệm được diện tích lớn để xây dựng khu chung cư, trung tâm thương mại, nhà văn hóa, khu giải trí - thể thao, … và do đó tạo ra mạng lưới giao thông liên kết giữa các khu vực này lại với nhau trên toàn thành phố. Các tuyến ray ngầm thường được lựa chọn để xây dựng nhiều nhất, vì nó không phá hủy kiến trúc quy hoạch trước đó của thành phố, không hạn chế chuyển động của các phương tiện vận tải trên mặt đất cũng như người đi bộ, mà góp phần giảm tiếng ồn, giảm rung chấn của các tòa nhà gây ra do chuyển động của tàu. Các tuyến đường ray ngầm được xây dựng dưới lòng đất ở độ sâu 10- 50m nhưng phổ biến nhất là ở độ sâu 10-15m vì việc xây dựng sẽ dễ dàng hơn, chi phí xây dựng, cũng như chi phí vận hành rẻ hơn. Hơn nữa hành khách sẽ mất ít thời gian ra/vào nhà ga để lên/xuống tàu. Các tuyến ray trên mặt đất thường được bố trí xây dựng ở những khu vực thành phố có mật độ các công trình xây dựng thấp và cần phải xây dựng các hàng rào xung quanh đường ray để đảm bảo an toàn chuyển động khi vận hành tàu. Các tuyến ray trên cao thường được xây dựng ở những đoạn liên quan đến địa hình, đặc biệt khi băng qua đường bộ, đường sắt hiện có, qua sông - kênh … các chướng ngại vật. Năm 1890, tại London - nước Anh bắt đầu xây dựng hệ thống metro đầu tiên với sức kéo điện của đầu máy chạy bằng điện (trước đó, năm 1860 đã xây dựng tuyến ray ngầm, đoàn tàu sử dụng sức kéo hơi nước). Còn tại New York - Mỹ, năm 1890 các tuyến đường sắt cũng được chuyển đổi sang sức kéo điện. (năm 1868 cũng đã xây dựng những đoạn đường sắt trên cao với sức kéo thô sơ bằng dây cáp và thay thế bằng sức kéo đầu máy hơi nước vào năm 1871). Châu Âu đi đầu trong việc xây dựng hệ thống metro: Budapest - Hungary xây dựng năm 1896; Paris- Pháp xây dựng năm 1900, đây cũng là năm mở cửa triển lãm công nghiệp trên thế giới; Sau đó một loạt các thành phố khác đã đưa vào khai thác hệ thống metro: Madrid - Tây Ban Nha vận hành vào năm 1919; Barcelona - Tây Ban Nha vận hành vào năm 1924; Athens - Hy Lạp điện khí hóa năm 1904 và nâng cấp hệ thống vào năm 2000; Tokyo - Nhật Bản vận hành vào năm 1927, Osla - Na Uy vận hành tuyến dường sắt ngầm đầu tiên tại Bắc Âu năm 1928 và nâng cấp hệ thống vào năm 1966, Stockhom - Thụy điển vận hành vào năm 1950, Moscow - Nga vận hành năm 1935, Saint-Persburg vận hành năm 1955, Kiev - Ukraina vận hành năm 1960, Tbilisi - Georgia năm 1966, Baku - Azerbaiijani năm 1967 … Sự phát triển của khoa học công nghệ nhanh chóng được áp dụng vào ngành đường sắt để giảm sức lao động của con người thông qua việc tạo ra và sử dụng các máy móc, thiết bị, các hệ thống tự động nhằm điều khiển và kiểm soát quá trình chuyển động của các tàu trên tuyến đường ray. Trong thời kỳ đầu, khoảng trước những năm 1900, người ta chủ yếu tập trung vào nghiên cứu thiết kế hệ thống điều khiển chạy tàu để trợ giúp/hoặc thay thế người lái. Hệ thống điều khiển chạy tàu (HĐTT) là thành phần cơ bản của hệ thống điều khiển chuyển động các đoàn tàu trên tuyến (HĐCT). Nó được thiết kế để tự động hóa các quá trình sau: * Xác định thời gian dừng tàu tại sân/ke ga; * Xác định thời gian chạy tàu trên khu gian (giữa hai sân ga); * Mở và đóng cửa hành khách ra/vào vào trên tàu; * Khởi hành chạy tàu từ sân ga; * Lựa chọn các chế độ điều khiển để thực hiện chạy tàu theo thời gian quy định; * Thực hiện hãm để giảm tốc độ của tàu, đáp ứng giới hạn vận tốc trên tuyến; * Hãm dừng tàu tại sân ga; * Thông báo cho người lái về chế độ, trạng thái của HĐTT; * Cung cấp thông tin cần thiết cho hành khách (ga khởi hành, ga tiếp theo, …); * Cung cấp tình trạng hiện tại của tàu cho trung tâm điều độ tàu (HĐĐT). HĐTT liên hệ trực tiếp với hệ thống an toàn chạy tàu (HACT). Các lệnh điều khiển của HACT luôn có mức ưu tiên cao nhất, nên cần phải lưu ý khi xây dựng HĐTT sao cho không thực hiện dư thừa lệnh điều khiển. HĐTT cũng liên kết với thiết bị trên tàu, đó là thiết bị tự động khởi động, cơ cấu chấp hành, bộ điều chỉnh vận tốc, cơ cấu hãm, thiết bị chống trượt và chống bó phanh, vì vậy chúng sẽ liên quan mật thiết đến cấu trúc và thuật toán cài đặt trong HĐTT. Sau này, khoảng sau năm 1965, khi mà công nghê bán dẫn, vi xử lý phát triển mạnh mẽ, đã tạo điều ki ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
hệ thống điều khiển tàu điện điều khiển thiết bị điện từ xa điều khiển tự động hoá tự động hóa công nghiệp mạch điều khiển từ xa điều khiển tốc độ động cơGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Máy điện (Nghề: Tự động hoá công nghiệp - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cơ giới (2019)
204 trang 269 0 0 -
94 trang 170 0 0
-
116 trang 152 2 0
-
167 trang 139 1 0
-
Đề tài: Thiết kế bộ PID số điều khiển tốc độ động cơ DC
66 trang 117 0 0 -
CƠ SỞ ĐIỀU KHIỂN TỰ ĐỘNG - Học Viện Bưu Chính Viễn Thông
99 trang 109 0 0 -
166 trang 96 3 0
-
Đồ án sử dụng biến tần điều khiển tốc độ động cơ không đồng bộ ba pha
53 trang 88 1 0 -
Đồ án: Thiết kế mạch điều khiển PID cho đối tượng bậc 2
28 trang 78 0 0 -
82 trang 51 0 0
-
Giáo trình AutoCAD (Nghề: Tự động hoá công nghiệp - Trung cấp) - Trường Cao đẳng Cơ giới (2022)
85 trang 48 1 0 -
167 trang 45 0 0
-
Bài tập lớn lý thuyết điều khiển tự động
16 trang 44 0 0 -
48 trang 42 0 0
-
Báo cáo bài tập lớn xe từ hành
18 trang 38 0 0 -
Giáo trình: Đo lường và Điều khiển xa
98 trang 37 0 0 -
TỰ ĐỘNG HÓA TRONG HỆ THỐNG LẠNH
48 trang 35 0 0 -
173 trang 35 0 0
-
GIÁO TRÌNH ĐIỀU KHIỂN SỐ_CHƯƠNG 5
0 trang 34 0 0 -
61 trang 33 0 0