Danh mục

Sự quan trọng của cổ tức

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 146.47 KB      Lượt xem: 11      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Hỗ trợ phí lưu trữ khi tải xuống: 1,000 VND Tải xuống file đầy đủ (6 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

“Điều duy nhất làm cho tôi hài lòng là thấy cổ tức tăng trưởng” – John D. Rockefeler Một trong những cách đơn giản nhất để truyền đạt thông tin tài chính tốt đẹp và giá trị của một công ty là để nói rằng “sự kiểm soát cổ tức ở trên thư điện tử”. Cổ tức là sự phân phối lượng tiền mặt từ thu nhập mà nhiều công ty trả thường xuyên cho các cổ đông, cổ tức mang đến thông tin rõ ràng lành mạnh về những triển vọng và sự tăng giá cổ tức trong tương lai....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự quan trọng của cổ tức Sự quan trọng của cổ tức “Điều duy nhất làm cho tôi hài lòng là thấy cổ tức tăng trưởng” – John D. Rockefeler Một trong những cách đơn giản nhất để truyền đạt thông tin tài chính tốt đẹp và giá trị của một công ty là để nói rằng “sự kiểm soát cổ tức ở trên thư điện tử”. Cổ tức là sự phân phối lượng tiền mặt từ thu nhập mà nhiều công ty trả thường xuyên cho các cổ đông, cổ tức mang đến thông tin rõ ràng lành mạnh về những triển vọng và sự tăng giá cổ tức trong tương lai. Sự sẵn sàng và khả năng trả cổ tức ổn định của một công ty – và khả năng làm gia tăng cổ tức – cung cấp những thông tin tốt đẹp về triển vọng của công ty. Cổ tức cho thấy triển vọng của công ty Trước khi luật qui định những công ty lớn phải công bố thông tin tài chính trong những năm 30 thì khả năng trả cổ tức của một công ty là một trong vài dấu hiệu về tình hình tài chính của công ty. Mặc dù Luật chứng khoán và tỷ giá (Mỹ) ra đời năm 1934 đã làm tăng tính minh bạch cho ngành nhưng cổ tức vẫn còn là một tiêu chuẩn so sánh có giá trị về triển vọng của công ty. Cụ thể, những công ty phát triển và có lợi nhuận sẽ chi trả cổ tức. Tuy nhiên, những công ty không trả cổ tức không hẳn là không có lợi nhuận. Nếu công ty nghĩ rằng cơ hội tăng trưởng của công ty tốt hơn các cơ hội đầu tư có sẵn khác của cổ đông, công ty sẽ giữ lại lợi nhuận và tái đầu tư. Vì các lí do này, vài công ty phát triển đã chi trả cổ tức. Nhưng thậm chí ở những công ty sung mãn, trong khi lợi nhuận của họ cao có thể được phân phối như cổ tức thì vẫn có nhu cầu giữ lại một lượng tiền mặ vừa đủ cho quỹ hoạt động của doanh nghiệp và để xử lý những công việc bất ngờ. Sự tiến triển của Microsoft trong suốt chu kỳ hoạt động đã chứng minh mối liên hệ giữa cổ tức và sự tăng trưởng. Khi phát minh của Bill Gate là một triển vọng tăng trưởng cho công ty, công ty không trả cổ tức nhưng tái đầu tư tất cả thu nhập để kích thích tăng trưởng hơn. Cuối cùng, phần mềm “gorilla” 800 pound làm cho công ty tăng trưởng đến đỉnh điểm ở một tỷ lệ chưa từng xảy ra trước đó và nó duy trì tỷ lệ này trong thời gian dài. Do vậy, thay vì thưởng cho cổ đông thông qua lãi vốn thì công ty bắt đầu sử dụng cổ tức và mua lại cổ phần như là một cách giữ sựa quan tâm của các nhà đầu tư. Kế hoạch được thông báo vào tháng 7- 2004, gần 18 năm sau lần phát hành cổ phiếu đầu tiên của công ty. Kế hoạch phân phối tiền mặt đã bỏ vào túi các cổ đông gần 75 triệu USD thông qua cổ tức trả hàng quý là $0.08 đối với cổ tức thường và $3 đối với cổ tức đặc biệt trả một lần, và chương trình mua lại cổ phần 30 tỷ USD trong suốt 4 năm. Tỷ suất cổ tức Nhiều nhà đầu tư thích quan tâm đến tỷ suất cổ tức, nó được tính toán bằng cách lấy thu nhập cổ tức hàng năm trên mỗi cổ phần chia cho giá cổ phiếu hiện tại. Tỷ suất cổ tức đo lường khỏan thu nhập nhận được so với giá cổ phiếu. Nếu một công ty có tỷ suất cổ tức thấp so với các công ty khác trong cùng ngành, nó có thể cho thấy 2 điều: (1) giá cổ phiếu cao bởi vì thị trường đã tính đến triển vọng mạnh mẽ và không lo lắng về việc chi trả cổ tức của công ty. (2) công ty đang trong tình trạng khó khăn và không đủ khả năng trả nhũng cổ tức hợp lý. Tuy nhiên, cùng lúc đó, tỷ suất cổ tức cao có thể báo hiệu một công ty yếu với giá cổ phiếu suy thoái. Tỷ suất cổ tức thì ít quan trọng đối với những công ty tăng trưởng bởi vì lợi nhuận sẽ được tái đầu tư vào các cơ hội mở rộng, đem lại cho cổ đông lợi nhuận dưới hình thức lãi vốn. Tỷ lệ bảo chứng cổ tức Khi bạn đánh giá việc chi trả cổ tức thực tế của một công ty thì nên tự hỏi là công ty đó có đủ khả năng chi trả cổ tức hay không. Tỷ lệ giữa thu nhập của công ty và cổ tức được trả cho cổ đông - gọi là tỷ lệ bảo chứng cổ tức - vẫn là một công cụ hữu dụng cho việc đo lường xem thu nhập có đủ để trang trải những nghĩa vụ chi trả cổ tức hay không. Tỷ lệ này được tính bằng cách lấy thu nhập mỗi cổ phần chia cho cổ tức mỗi cổ phần. Khi tỷ lệ này trở nên thấp, sẽ có cơ may cắt giảm cổ tức, điều này có thể có tác động tai hại đến giá trị doanh nghiệp. Các nhà đầu tư có thể cảm thấy an toàn với tỷ lệ bảo chứng bằng 2 hoặc 3. Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ bảo chứng sẽ trở thành chỉ báo khẩn cấp khi tỷ lệ này trượt xuống dưới khoảng 1.5, tại điểm này bắt đầu có rủi ro. Nếu tỷ lệ này dứơi 1, công ty sẽ sử dụng lợi nhuận giữ lại từ năm ngoái để chi trả cổ tức cho năm nay. Cùng lúc đó, nếu sự chi trả này trở nên cao, trên 5, các nhà đầu tư nên hỏi liệu ban quản trị có đang nắm giữ thu nhập thặng dư mà không trả đủ tiền mặt cho cổ đông hay không. Các giám đốc tăng cổ tức có nghĩa là họ đang nói với các nhà đầu tư rằng công ty sẽ ổn định vững chắc trong 12 tháng tới hoặc hơn nữa. Ví dụ, Kimberly Clark, một tập đoàn khổng lồ chuyên sản xuất sản phẩm chăm sóc cá nhân đã tăng 13% cổ tức trong quý đầu năm 2003, điều này như đang nói với các nhà đầu tư rằng sự cạnh tranh về giá không phải là vấn đề dài hạn. Thậm chí dấu hiệu này còn mạnh hơn bởi vì KC đã có xu hướn ...

Tài liệu được xem nhiều: