SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO
Số trang: 20
Loại file: pdf
Dung lượng: 386.12 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Người ta thường cho rằng việc các nước đang phát triển sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO với các nước công nghiệp sẽ là sự lãng phí về thời gian và tiền bạc. Người ta lập
luận rằng ngay cả khi tranh cãi xảy ra, một nước đang phát triển có một phán quyết pháp lý
rõ ràng rằng một nước công nghiệp đã vi phạm những nghĩa vụ pháp lý của mình thì nước
đang phát triển này cũng không có một biện pháp hữu hiệu nào để cưỡng chế thi hành phán
quyết đó....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Nin khĩa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO Robert Hudec PHÂN TÍCH DƯỚI GIÁC ĐỘ CỦA MỘT NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Người ta thường cho rằng việc các nước đang phát triển sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với các nước công nghiệp sẽ là sự lãng phí về thời gian và tiền bạc. Người ta lập luận rằng ngay cả khi tranh cãi xảy ra, một nước đang phát triển có một phán quyết pháp lý rõ ràng rằng một nước công nghiệp đã vi phạm những nghĩa vụ pháp lý của mình thì nước đang phát triển này cũng không có một biện pháp hữu hiệu nào để cưỡng chế thi hành phán quyết đó. Quy trình giải quyết tranh chấp của WTO chỉ có thể đưa ra sự trừng phạt mang tính cưỡng chế duy nhất là trả đủa thương mại – tức là nước khiếu kiện áp đặt những sự trừng phạt thương mại mang tính phân biệt đối xử với các quốc gia bị khiếu nại. Tuy nhiên biện pháp trả đủa thương mại do các nước đang phát triển tương đối nhỏ bé thực hiện không gây ra tổn thất nghiêm trọng nào đối với các nước công nghiệp lớn hơn. Cuối cùng người ta đi đến kết luận rằng việc trả đủa sẽ gây thiệt hại cho nước đang phát triển sử dụng nó nhiều hơn rất nhiều so với nước công nghiệp bị áp đặt sự trừng phạt thương mại. Kinh nghiệm này xem ra cũng có nhiều phần rất đúng. Thực ra, “luật” của WTO không cung cấp cho những nước nhỏ sự bảo vệ giống như là sự bảo vệ của những hệ thống pháp lý trong nước hoàn chỉnh dành cho các công dân của mình. Những giải pháp của hệ thống WTO cho phép các nước lớn áp đặt những cưỡng chế thi hành lên các nước nhỏ mạnh hơn là các nước nhỏ áp đặt lên các nước lớn trong tình huống ngược lại. Những thiếu sót của hệ thống luật pháp của WTO trong tình huống này đã gây ra một tranh cãi hợp pháp cho chính phủ các nước đang phát triển khi họ phải quyết định có nên vận dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này để chống lại các nước lớn hay không. Hơn nữa, những thiếu sót này lại đặt ra câu hỏi liệu rằng có đáng để cho các nước đang phát triển tiêu tốn nguồn lực thương thảo của mình nhằm nổ lực để sửa chữa cho những thiếu sót này và nếu như vây thì cần phải cải tổ cụ thể như thế nào. Trong chương này, tôi sẽ khảo sát những dữ kiện đằng sau kinh nghiệm phổ biến này một cách cẩn thận hơn. Mục đích của tôi không phải là để chứng minh rằng kinh nghiệm phổ biến này là hoàn toàn sai. Đúng hơn là, tôi hy vọng sẽ chỉ ra rằng vấn đề ở đây, cũng như nhiều vấn đề khác, không phải là một vấn đề đã rõ rành rành và thông thường là được định trước. Tôi nghĩ, điều quan trọng là các viên chức chịu trách nhiệm quyết định những vấn đề này có một sự hiểu biết chính xác cái gì đúng và cái gì sai của các giải pháp trong hệ thống hiện tại của WTO, và hệ thống được vận hành tốt hay kém như thế nào trong thực tiễn. Mục đích của tôi là phát thảo ra ít nhất một vài thông tin cần thiết để có được sự thông hiểu đó. Cưỡng chế thi hành trong hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT Sự yếu kém của hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT, hoạt động từ năm 1984 đến năm 1994, đã được mô tả thường xuyên đến nỗi không cần phải đi sâu thêm vài chi tiết. Toàn bộ hệ thống dựa trên một cơ chế quyết định nhất trí, điều này có nghĩa là cần phải có sự đồng ý Bernard Hoekman et al. 1 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO của nước bị khiếu kiện trước khi các thủ tục như: lên danh sách hội đồng xét xử, xác định các điều khoản tham chiếu, ban hành phán quyết, phê chuẩn việc trả đũa… có thể được tiến hành. Sửa đổi chính mà Bản Hướng dẫn Giải Quyết Tranh Chấp Của WTO đưa ra là làm cho thủ tục này tự động được tiến hành khi có yêu cầu của bên khiếu kiện dù có hay không sự đồng ý của bên bị khiếu kiện. Ngoài khuyết điểm chính nêu trên, các giải pháp tu chỉnh chính thức của hệ thống pháp lý GATT khi phát hiện có sự vi phạm pháp lý cũng còn khá hạn chế. Một phán quyết về vi phạm cũng chỉ cho phép chính phủ nước khiếu kiện ra một “kiến nghị chung chung” yêu cầu chính phủ nước bị khiếu kiện tuân thủ các nghĩa vụ của mình. Kiến nghị này lại chỉ nhằm vào hành vi trong tương lai chứ không có sự bồi thường cho những thiệt hại do sự vi phạm đó đã gây ra. Cũng không có giới hạn thời gian để buộc phải tuân thủ và quá trình đạt được sự tuân thủ đó có thể kéo dài nhiều năm. Chính phủ nước khiếu kiện đôi lúc có thể yêu cầu cho phép trả đũa bằng cách áp đặt những rào cản thương mại tương ứng, nhưng yêu cầu này có thể bị chính phủ nước bị khiếu kiện phủ quyết. Trong giai đoạn hoạt động gần nhất của GATT, chỉ có hai yêu cầu cho phép trả đũa được đưa ra, cả hai đều nhằm chống lại Hoa Kỳ và cả hai đều bị phủ quyết1. Mặc dù bên bị khiếu kiện có khả năng cản trở thủ tục xét xử, thủ tục xét xử tranh chấp của GATT gặt hái một số lượng đáng kể những khiếu nại về thủ tục giải quyết tranh chấp trong 50 năm lịch sử của nó. Theo nghiên cứu của cá nhân tôi về những vụ khiếu kiện của GATT từ năm 1948 đến cuối năm 1989, đã có 207 vụ khiếu kiện. Trong đó, 88 vụ đã có phán quyết. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Nin khĩa 2005 – 2006 Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đáng của các giải pháp xử lý tranh chấp của WTO SỰ THỎA ĐÁNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ TRANH CHẤP CỦA WTO Robert Hudec PHÂN TÍCH DƯỚI GIÁC ĐỘ CỦA MỘT NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN Người ta thường cho rằng việc các nước đang phát triển sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO với các nước công nghiệp sẽ là sự lãng phí về thời gian và tiền bạc. Người ta lập luận rằng ngay cả khi tranh cãi xảy ra, một nước đang phát triển có một phán quyết pháp lý rõ ràng rằng một nước công nghiệp đã vi phạm những nghĩa vụ pháp lý của mình thì nước đang phát triển này cũng không có một biện pháp hữu hiệu nào để cưỡng chế thi hành phán quyết đó. Quy trình giải quyết tranh chấp của WTO chỉ có thể đưa ra sự trừng phạt mang tính cưỡng chế duy nhất là trả đủa thương mại – tức là nước khiếu kiện áp đặt những sự trừng phạt thương mại mang tính phân biệt đối xử với các quốc gia bị khiếu nại. Tuy nhiên biện pháp trả đủa thương mại do các nước đang phát triển tương đối nhỏ bé thực hiện không gây ra tổn thất nghiêm trọng nào đối với các nước công nghiệp lớn hơn. Cuối cùng người ta đi đến kết luận rằng việc trả đủa sẽ gây thiệt hại cho nước đang phát triển sử dụng nó nhiều hơn rất nhiều so với nước công nghiệp bị áp đặt sự trừng phạt thương mại. Kinh nghiệm này xem ra cũng có nhiều phần rất đúng. Thực ra, “luật” của WTO không cung cấp cho những nước nhỏ sự bảo vệ giống như là sự bảo vệ của những hệ thống pháp lý trong nước hoàn chỉnh dành cho các công dân của mình. Những giải pháp của hệ thống WTO cho phép các nước lớn áp đặt những cưỡng chế thi hành lên các nước nhỏ mạnh hơn là các nước nhỏ áp đặt lên các nước lớn trong tình huống ngược lại. Những thiếu sót của hệ thống luật pháp của WTO trong tình huống này đã gây ra một tranh cãi hợp pháp cho chính phủ các nước đang phát triển khi họ phải quyết định có nên vận dụng hệ thống giải quyết tranh chấp này để chống lại các nước lớn hay không. Hơn nữa, những thiếu sót này lại đặt ra câu hỏi liệu rằng có đáng để cho các nước đang phát triển tiêu tốn nguồn lực thương thảo của mình nhằm nổ lực để sửa chữa cho những thiếu sót này và nếu như vây thì cần phải cải tổ cụ thể như thế nào. Trong chương này, tôi sẽ khảo sát những dữ kiện đằng sau kinh nghiệm phổ biến này một cách cẩn thận hơn. Mục đích của tôi không phải là để chứng minh rằng kinh nghiệm phổ biến này là hoàn toàn sai. Đúng hơn là, tôi hy vọng sẽ chỉ ra rằng vấn đề ở đây, cũng như nhiều vấn đề khác, không phải là một vấn đề đã rõ rành rành và thông thường là được định trước. Tôi nghĩ, điều quan trọng là các viên chức chịu trách nhiệm quyết định những vấn đề này có một sự hiểu biết chính xác cái gì đúng và cái gì sai của các giải pháp trong hệ thống hiện tại của WTO, và hệ thống được vận hành tốt hay kém như thế nào trong thực tiễn. Mục đích của tôi là phát thảo ra ít nhất một vài thông tin cần thiết để có được sự thông hiểu đó. Cưỡng chế thi hành trong hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT Sự yếu kém của hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT, hoạt động từ năm 1984 đến năm 1994, đã được mô tả thường xuyên đến nỗi không cần phải đi sâu thêm vài chi tiết. Toàn bộ hệ thống dựa trên một cơ chế quyết định nhất trí, điều này có nghĩa là cần phải có sự đồng ý Bernard Hoekman et al. 1 Biên dịch: Lê Minh Tâm Hiệu đính: Trương Quang Hùng Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Ngoại thương: Pht trịển, thương mại, v WTO Thể chế và tác động Ch. 10: Sự thoả đng của cc giải php xử lý tranh chấp của WTO của nước bị khiếu kiện trước khi các thủ tục như: lên danh sách hội đồng xét xử, xác định các điều khoản tham chiếu, ban hành phán quyết, phê chuẩn việc trả đũa… có thể được tiến hành. Sửa đổi chính mà Bản Hướng dẫn Giải Quyết Tranh Chấp Của WTO đưa ra là làm cho thủ tục này tự động được tiến hành khi có yêu cầu của bên khiếu kiện dù có hay không sự đồng ý của bên bị khiếu kiện. Ngoài khuyết điểm chính nêu trên, các giải pháp tu chỉnh chính thức của hệ thống pháp lý GATT khi phát hiện có sự vi phạm pháp lý cũng còn khá hạn chế. Một phán quyết về vi phạm cũng chỉ cho phép chính phủ nước khiếu kiện ra một “kiến nghị chung chung” yêu cầu chính phủ nước bị khiếu kiện tuân thủ các nghĩa vụ của mình. Kiến nghị này lại chỉ nhằm vào hành vi trong tương lai chứ không có sự bồi thường cho những thiệt hại do sự vi phạm đó đã gây ra. Cũng không có giới hạn thời gian để buộc phải tuân thủ và quá trình đạt được sự tuân thủ đó có thể kéo dài nhiều năm. Chính phủ nước khiếu kiện đôi lúc có thể yêu cầu cho phép trả đũa bằng cách áp đặt những rào cản thương mại tương ứng, nhưng yêu cầu này có thể bị chính phủ nước bị khiếu kiện phủ quyết. Trong giai đoạn hoạt động gần nhất của GATT, chỉ có hai yêu cầu cho phép trả đũa được đưa ra, cả hai đều nhằm chống lại Hoa Kỳ và cả hai đều bị phủ quyết1. Mặc dù bên bị khiếu kiện có khả năng cản trở thủ tục xét xử, thủ tục xét xử tranh chấp của GATT gặt hái một số lượng đáng kể những khiếu nại về thủ tục giải quyết tranh chấp trong 50 năm lịch sử của nó. Theo nghiên cứu của cá nhân tôi về những vụ khiếu kiện của GATT từ năm 1948 đến cuối năm 1989, đã có 207 vụ khiếu kiện. Trong đó, 88 vụ đã có phán quyết. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
giáo trình học ngoại thương luật WTO tài liệu ngành ngoại thương kinh tế ngoại thương luật thương mại giáo trìnhGợi ý tài liệu liên quan:
-
Hợp đồng nhượng quyền thương mại: Phần 2
48 trang 269 0 0 -
Giáo trình Vận tải và giao nhận trong ngoại thương: Phần 1
164 trang 266 3 0 -
14 trang 172 0 0
-
5 trang 168 0 0
-
Một số điều luật về Thương mại
52 trang 164 0 0 -
Khóa luận tốt nghiệp: Môi trường đầu tư bất động sản Việt Nam: thực trạng và giải pháp
83 trang 160 0 0 -
Hình thành hệ thống điều khiển trình tự xử lý các toán tử trong một biểu thức logic
50 trang 157 0 0 -
Báo cáo thực hành Môn: Công nghệ vi sinh
15 trang 153 0 0 -
24 trang 149 0 0
-
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ GIÁO TRÌNH
3 trang 146 0 0