Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ _1
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 196.11 KB
Lượt xem: 11
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Hay có thể lựa chọn song hành cùng lúc nhiều hướng ứng xử? Quyết định hướng nào là do sự lựa chọn của từng người, bởi điểm tựa tinh thần lớn nhất của nhà nho lúc này chỉ có thể là bản lĩnh, cá tính và tài năng cá nhân.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ _1Sự thống nhất những đối cựctrong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ Hay có thể lựa chọn song hành cùng lúc nhiều hướng ứng xử? Quyết định hướng nào làdo sự lựa chọn của từng người, bởi điểm tựa tinh thần lớn nhất của nhà nho lúc này chỉ có thể làbản lĩnh, cá tính và tài năng cá nhân. Có thể thấy tâm sự và cũng là lời thách của Đặng TrầnThường - Ai công hầu, ai khanh tướng, giữa trần ai, ai dễ biết ai (?), một mặt có thể bộc lộ ýthức cơ hội cá nhân, nhưng mặt khác - đây mới là điều đáng nói - cho thấy sự phi chuẩn, mấtchuẩn của thời đại bấy giờ trong con mắt nhà nho. Không phải ngẫu nhiên mà Cao Bá Quáttuyên bố: Nằm khểnh ngâm thơ cho vợ ngủ Ngồi rù uống rượu với con chơi Mô phạm dăm ba đứa mũi chưa chùi Tiêu khiển mấy cô đào mới nỏi Ngoài tai ấy tha hồ ai gọi Rằng ngựa trâu, vâng, cũng ngựa trâu Nào đâu đã hẳn hơn đâu? (May rủi) Còn Nguyễn Công Trứ: Đã chắc rằng ai nhục với ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ ? (Chí khí anh hùng) “Giữa trần ai ai dễ biết ai?”, “Nào đâu đã hẳn hơn đâu?”, “Đã chắc rằng ai nhục, aivinh?”, “Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ?”..., cả một lớp nhà nho từ Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Đặng Trần Thường (1759-1816), Hồ Xuân Hương (1772-1822)(11)... đến Cao Bá Quát(1809-1855), Nguyễn Công Trứ (1778-1859), v.v..., tuy quan điểm chính trị có khác nhaunhưng họ rất gặp nhau trong cái nhìn về một thời đại giông bão, phức tạp và dường như mất“chuẩn” bấy giờ. Phần lớn, họ tự xác định mọi định chuẩn cho mình dựa trên bản lĩnh và tài năngcá nhân. Có phải đây là một đặc điểm của người “anh hùng thời loạn”? Có thể nói tiền đề xã hội cho mọi hướng ứng xử hành đạo, hành lạc, ẩn dật, “vô vi”... ởthời đại Nguyễn Công Trứ đã có thể cho phép nhà nho rộng đường trong sự lựa chọn. Nếu nhưkiểu nhà nho chính thống vẫn còn băn khoăn với nhiều lẽ “xuất”, “xử”, “hành”, “tàng”, “minh”,“u”, “khôn”, “dại”..., thì lớp nhà nho tài tử vừa mới xuất hiện lại không mấy bận tâm với nhữngđiều này. Điều quan trọng đối với họ là cơ hội để bộc lộ tài năng, trên cơ sở đó mà ngạonghễ tuyên bố “Nhân sinh quý thích chí”... “Hành” hay “tàng” theo quan niệm của họ thực racũng chẳng khác gì nhau: Hành tàng bất nhị kỳ quan (Nguyễn Công Trứ). “Hiền”, “ngu”,“khôn”, “dại”... khó mà xác định. Vì thế Cao Bá Quát bất cần: Hiền ngu thiên tải tri thuỳ mị, Phú quý bách niên năng kỷ hà? (Ngàn năm biết ai là hiền là ngu, Trăm năm phú quý được mấy nỗi) Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã không theo lối “tàng”, không cần phải ẩn mình. Họchọn lối “hành”, xuất hiện một cách ngạo nghễ, đường hoàng trên cả hai hướng hànhđạo và hành lạc. Đặc biệt đối với Nguyễn Công Trứ, hành đạo hayhành lạc, tất cả đều chỉ là mộtcuộc chơi: - Tang bồng là nợ Làm tài trai chi sợ áng công danh... Chơi cho phỉ chí tang bồng (Quân tử cố cùng) - Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên, Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí. (Cầm kỳ thi tửu) Hành đạo và hành lạc với Nguyễn Công Trứ như là hai mặt của một vấn đề, hai cực củamột cuộc chơi. Cả hai đều là nơi gửi gắm cái chí của người anh hùng, tạo nên một sự giải toả cầnthiết cho người tài tử trong ông ở thời đại bấy giờ. Chính vì thế mà thơ ngôn chí hay thơ hànhlạc đều cùng một khẩu khí ngang tàng, bất cần, phóng túng. Con người hành đạo hầu như luôncùng song hành với con người hành lạc trong nhà nho Nguyễn Công Trứ đã có thể bộc lộ sởtrường đa năng của mình trên tất cả mọi hướng: Đem quách cả sở tồn làm sở dụng, Trong lăng miếu ra tài lương đống. Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương, Sĩ làm cho bách thế lưu phương... ... Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi, Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc, thanh, Này này sĩ mới hoàn danh. (Luận kẻ sĩ) Có thể xem Luận kẻ sĩ như một tuyên ngôn về lẽ sống đồng thời cũng như là tuyên ngônvề nghệ thuật đầy chân thành, xúc động và cũng rất mực rõ ràng của Nguyễn Công Trứ. Tuy có ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Sự thống nhất những đối cực trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ _1Sự thống nhất những đối cựctrong phong cách nghệ thuật Nguyễn Công Trứ Hay có thể lựa chọn song hành cùng lúc nhiều hướng ứng xử? Quyết định hướng nào làdo sự lựa chọn của từng người, bởi điểm tựa tinh thần lớn nhất của nhà nho lúc này chỉ có thể làbản lĩnh, cá tính và tài năng cá nhân. Có thể thấy tâm sự và cũng là lời thách của Đặng TrầnThường - Ai công hầu, ai khanh tướng, giữa trần ai, ai dễ biết ai (?), một mặt có thể bộc lộ ýthức cơ hội cá nhân, nhưng mặt khác - đây mới là điều đáng nói - cho thấy sự phi chuẩn, mấtchuẩn của thời đại bấy giờ trong con mắt nhà nho. Không phải ngẫu nhiên mà Cao Bá Quáttuyên bố: Nằm khểnh ngâm thơ cho vợ ngủ Ngồi rù uống rượu với con chơi Mô phạm dăm ba đứa mũi chưa chùi Tiêu khiển mấy cô đào mới nỏi Ngoài tai ấy tha hồ ai gọi Rằng ngựa trâu, vâng, cũng ngựa trâu Nào đâu đã hẳn hơn đâu? (May rủi) Còn Nguyễn Công Trứ: Đã chắc rằng ai nhục với ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ ? (Chí khí anh hùng) “Giữa trần ai ai dễ biết ai?”, “Nào đâu đã hẳn hơn đâu?”, “Đã chắc rằng ai nhục, aivinh?”, “Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ?”..., cả một lớp nhà nho từ Ngô Thì Nhậm (1746-1803), Đặng Trần Thường (1759-1816), Hồ Xuân Hương (1772-1822)(11)... đến Cao Bá Quát(1809-1855), Nguyễn Công Trứ (1778-1859), v.v..., tuy quan điểm chính trị có khác nhaunhưng họ rất gặp nhau trong cái nhìn về một thời đại giông bão, phức tạp và dường như mất“chuẩn” bấy giờ. Phần lớn, họ tự xác định mọi định chuẩn cho mình dựa trên bản lĩnh và tài năngcá nhân. Có phải đây là một đặc điểm của người “anh hùng thời loạn”? Có thể nói tiền đề xã hội cho mọi hướng ứng xử hành đạo, hành lạc, ẩn dật, “vô vi”... ởthời đại Nguyễn Công Trứ đã có thể cho phép nhà nho rộng đường trong sự lựa chọn. Nếu nhưkiểu nhà nho chính thống vẫn còn băn khoăn với nhiều lẽ “xuất”, “xử”, “hành”, “tàng”, “minh”,“u”, “khôn”, “dại”..., thì lớp nhà nho tài tử vừa mới xuất hiện lại không mấy bận tâm với nhữngđiều này. Điều quan trọng đối với họ là cơ hội để bộc lộ tài năng, trên cơ sở đó mà ngạonghễ tuyên bố “Nhân sinh quý thích chí”... “Hành” hay “tàng” theo quan niệm của họ thực racũng chẳng khác gì nhau: Hành tàng bất nhị kỳ quan (Nguyễn Công Trứ). “Hiền”, “ngu”,“khôn”, “dại”... khó mà xác định. Vì thế Cao Bá Quát bất cần: Hiền ngu thiên tải tri thuỳ mị, Phú quý bách niên năng kỷ hà? (Ngàn năm biết ai là hiền là ngu, Trăm năm phú quý được mấy nỗi) Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã không theo lối “tàng”, không cần phải ẩn mình. Họchọn lối “hành”, xuất hiện một cách ngạo nghễ, đường hoàng trên cả hai hướng hànhđạo và hành lạc. Đặc biệt đối với Nguyễn Công Trứ, hành đạo hayhành lạc, tất cả đều chỉ là mộtcuộc chơi: - Tang bồng là nợ Làm tài trai chi sợ áng công danh... Chơi cho phỉ chí tang bồng (Quân tử cố cùng) - Nợ tang bồng hẹn khách thiếu niên, Cuộc hành lạc vẫy vùng cho phỉ chí. (Cầm kỳ thi tửu) Hành đạo và hành lạc với Nguyễn Công Trứ như là hai mặt của một vấn đề, hai cực củamột cuộc chơi. Cả hai đều là nơi gửi gắm cái chí của người anh hùng, tạo nên một sự giải toả cầnthiết cho người tài tử trong ông ở thời đại bấy giờ. Chính vì thế mà thơ ngôn chí hay thơ hànhlạc đều cùng một khẩu khí ngang tàng, bất cần, phóng túng. Con người hành đạo hầu như luôncùng song hành với con người hành lạc trong nhà nho Nguyễn Công Trứ đã có thể bộc lộ sởtrường đa năng của mình trên tất cả mọi hướng: Đem quách cả sở tồn làm sở dụng, Trong lăng miếu ra tài lương đống. Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương, Sĩ làm cho bách thế lưu phương... ... Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi, Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc, thanh, Này này sĩ mới hoàn danh. (Luận kẻ sĩ) Có thể xem Luận kẻ sĩ như một tuyên ngôn về lẽ sống đồng thời cũng như là tuyên ngônvề nghệ thuật đầy chân thành, xúc động và cũng rất mực rõ ràng của Nguyễn Công Trứ. Tuy có ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcGợi ý tài liệu liên quan:
-
9 trang 3395 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 787 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 747 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 715 0 0 -
6 trang 609 0 0
-
2 trang 456 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 391 0 0 -
4 trang 366 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 310 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 242 0 0