Thông tin tài liệu:
Suy giáp (Phần 2)Những triệu chứng của suy giáp là gì? Triệu chứng của suy giáp thường nhẹ. Các triệu chứng thường không chuyên biệt (có nghĩa là nó giống những triệu chứng của những bịnh khác) và thường đượcgóp phần với vấn đề tuổi tác. Những bịnh nhân suy giáp nhẹ thì không có triệu chứng. Những triệu chứng trở nên rõ rệt khi suy giáp càng tăng và phần lớn những than phiền liên quan đến chậm chuyển hoá của cơ thể. Những triệu chứng như sau:•Mệt. Trầm cảm. Tăng cân. Sợ lạnh. Buồn ngủ. Tóc thô và...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Suy giáp (Phần 2) Suy giáp (Phần 2) Những triệu chứng của suy giáp là gì? Triệu chứng của suy giáp thường nhẹ. Các triệu chứng thường không chuyênbiệt (có nghĩa là nó giống những triệu chứng của những bịnh khác) và thường đượcgóp phần với vấn đề tuổi tác. Những bịnh nhân suy giáp nhẹ thì không có triệu chứng.Những triệu chứng trở nên rõ rệt khi suy giáp càng tăng và phần lớn những than phiềnliên quan đến chậm chuyển hoá của cơ thể. Những triệu chứng như sau: • Mệt. • Trầm cảm. • Tăng cân. • Sợ lạnh. • Buồn ngủ. • Tóc thô và khô. • Táo bón. • Da khô. • Hay bị chuột rút. • Tăng cholesterol trong máu. • Giảm tập trung. • Phù chân. Khi bịnh trở nên nặng hơn thì có thể có phù quanh mắt, chậm nhịp tim, giảmthân nhiệt và suy tim. Trong hầu hết các trường hợp suy giáp được tìm thấy, suy giápnặng có thể dẫn đến hôn mê (do phù niêm). Trong những người suy giáp nặng hôn mêdo phù niêm thường được khởi phát do những bịnh nặng, phẫu thuật, stress hoặc chấnthương. Tình trạng này cần nhập viện ngay lập tức và được dùng hormone tuyến giápbằng đường chích. Suy giáp được chẩn đoán có thể dễ dàng điều trị bằng hormone tuyến giáp thaythế. Nói cách khác suy giáp nếu không điều trị có thể dẫn đến tim lớn, suy tim tăngthêm, và tràn dịch màng phổi. Suy giáp được chẩn đoán như thế nào ? Suy giáp cần được nghi ngờ khi thấy bịnh nhân mệt, sợ lạnh, táo bón, da khô,bong vảy. Xét nghiệm máu là cần thiết để giúp chẩn đoán. Khi suy giáp xuất hiện, hormone tuyến giáp được đo trực tiếp và thường giảm.Tuy nhiên suy giáp ở giai đoạn sớm thì T3, T4 có thể bình thường . Phương phápchính để phát hiện cường giáp là đo TSH. Giai đoạn sớm thì TSH được tiết ra bởituyến yên. Nếu giảm hormone tuyến giáp xảy ra thì tuyến yên sẽ tăng tiết TSH để tăngkích thích tuyến giáp tăng sản xuất hormone. Ðiều này làm tăng TSH nhưng vẫn giảmhormone tuyến giáp qua nhiều tháng hoặc nhiều năm. Như thế đo TSH sẽ cao trongnhững trường hợp suy giáp. Tuy nhiên có một ngoại lệ là nếu giảm hormone tuyếngiáp do khiếm khuyết ở tuyến yên hoặc vùng hạ đồi, mức TSH sẽ giảm một cách bấtthường. Như đã được đánh giá ở trên thì bịnh này được xem là suy giáp cấpII(secondary), cấp III (tertiary). Test chuyên biệt - TRH có thể giúp phân biệt bịnhđược gây ra bởi tuyến yên hay vùng hạ đồi. Test này yêu cầu chích hormone TRH vàđược thực hiện bởi chuyên gia nội tiết. Xét nghiệm máu như trên có thể giúp chẩn đoán suy giáp nhưng không chỉ ranguyên nhân. Sự kết hợp bịnh sử, lâm sàng, xét nghiệm kháng thể như trên cộng vớichụp cắt lớp tuyến giáp giúp chẩn đoán bịnh của tuyến giáp rõ ràng hơn. Nếu nghi ngờdo nguyên nhân tuyến yên hoặc vùng hạ đồi thì MRI não và những xét nghiệm kháccần làm thêm. Những xét nghiệm làm thêm này được làm tùy từng trường hợp cụ thể. Suy giáp được điều trị ra sao? Ðiều trị suy giáp phải lâu dài. Trước khi dùng levothyroxin tổng hợp (T4) cóthể dùng những viên thyroid sấy khô. Những viên này thu được từ tuyến giáp của thú.Hiện tại T4 tổng hợp tinh khiết có thể sử dụng rộng rãi. Vì không có lý do gì để dùngnhững tinh chất này từ tuyến giáp đông khô. Như đã nói ở trên những hormone của tuyến giáp hoặc động vật thật sự là T3.Thế thì tại sao bác sĩ lại chọn T4 để điều trị ? T3 (cytomel) thì có thể dùng và có chỉđịnh nào đó cho việc sử dụng nó. Tuy nhiên phần lớn bịnh nhân dùng T4 tổng hợp(levoxyl, syndroid) thì thích hợp hơn. Ðiều này làm hormone tuyến giáp ổn định hơnvà chỉ cần dùng một lần trong ngày, trong khi T3 thì hoạt động ngắn hơn nhiều và cầndùng nhiều lần trong ngày. Trong phần lớn bịnh nhân thì T4 tổng hợp sẽ sẵn sàng vàđều đặn biến đổi thành T3 tự nhiên trong máu và sự biến đổi này được điều hòa thíchhợp bởi mô cơ thể. Liều trung bình T4 được dùng là khoảng 1,6 microgam/kg cân nặng /ngày. Xấpxỉ khoảng 100 - 150 microgam /ngày. Trẻ em cần liều lớn hơn. Ở những người trẻkhoẻ khởi đầu nên dùng liều thyroid đầy đủ. Nhưng trong những bịnh nhân có bịnhtim trước đó thì liều này có thể làm tăng thêm bịnh tim. Những người già mà khôngbiết bịnh tim tồn tại trước thì liều như trên có thể dẫn đến bịnh tim không hồi phụcdẫn đến đau ngực hoặc sốc tim. Vì lý do đó nên bịnh nhân với tiền sử bịnh tim hoặcnghi ngờ có bịnh thì liều khởi đầu nên là 25mg hoặc ít hơn sau đó tăng dần mỗi sáutuần. Ðiều lý tưởng là T4 nên được dùng vào buổi sáng, 30 phút trước khi ăn. Nhữngthuốc khác có chứa sắt, antacid nên được tránh vì chúng gây giảm hấp thu thuốc. Ðiều trị suy giáp được theo dõi mỗi 6 tuần cho đến khi ổn định. Suốt thời giannày thì c ...