Danh mục

Suy nghĩ về việc nuôi xen ghép trên vùng đầm phá Thừa Thiên Huế

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 131.92 KB      Lượt xem: 10      Lượt tải: 0    
Jamona

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Suy nghĩ về việc nuôi xen ghép trên vùng đầm phá Thừa Thiên HuếHiện nay, mùa vụ nuôi thủy sản trên đầm phá đã bắt đầu. Người dân đang đứng trước những lựa chọn: Chỉ nuôi đơn tôm sú hay nuôi ghép nhiều đối tượng? Câu hỏi trên đang đặt ra đối với những người làm công tác kỹ thuật và ngư dân đầm phá. Để góp phần giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh tế của nghề nuôi thủy sản, tôi xin đóng góp một số ý kiến sau đây:.1. Trước hết chủ trương nuôi xen ghép...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Suy nghĩ về việc nuôi xen ghép trên vùng đầm phá Thừa Thiên Huế Suy nghĩ về việc nuôi xen ghép trên vùng đầm phá Thừa Thiên Huế Hiện nay, mùa vụ nuôi thủy sản trên đầm phá đã bắt đầu. Người dân đang đứngtrước những lựa chọn: Chỉ nuôi đơn tôm sú hay nuôi ghép nhiều đối tượng? Câu hỏitrên đang đặt ra đối với những người làm công tác kỹ thuật và ngư dân đầm phá. Đểgóp phần giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh tế của nghề nuôi thủy sản, tôi xinđóng góp một số ý kiến sau đây: 1. Trước hết chủ trương nuôi xen ghép đang được các địa phương triểnkhai thực hiện là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã rút được nhiều bài học về contôm sú và đã có xu hướng chuyển đổi, cụ thể là: Trong những năm gần đây là các tác động của khoa học kỹ thuật, khuyến ngưvà tự phát của người dân diện tích nuôi xen ghép không ngừng được tăng lên. Chỉ tính3 tháng đầu năm nay là 917 ha chiếm 36% diện tích thả nuôi, con số này chắc chắncòn tăng lên nữa. Điều đặc biệt là hầu hết diện tích nuôi xen ghép những năm trướcđây đều có lãi, mức lãi trung bình từ 10 – 15 triệu đồng/ha. Từ thực tế này nên chăng trở lại về cách nuôi truyền thống: thả thưa, hỗn hợpnhiều đối tượng. 2. Các giải quyết những vấn đề liên quan đến kỹ thuật 2.1. Giống là khâu then chốt, quyết định thành bại của hình thức nuôi này Từ thực tế sản xuất, cơ cấu nuôi xen ghép được xác định là 3 đối tượng chủ lựcbao gồm: tôm sú – cá kình – cua. Ngoài ra, tùy điều kiện cụ thể của từng địa phươngcó thể xen thêm các đối tượng khác như: cá dìa, cá nâu, cá đối, cá rô phi, rong câu,tôm đất ... Trong các đối tượng nuôi thả tôm sú, rô phi, tôm đất và cua biển đã chủ độngđược nguồn giống sinh sản nhân tạo. Các đối tượng còn lại gần như phụ thuộc vào tựnhiên. Để khắc phục dần tình trạng này, chúng tôi đề nghị: 1- Cấm các trộ đáy ở cồn Đâu (Hải Dương), cửa Thuận An, cửa Tư Hiền trongmùa cá kình xuất hiện. 2- Cải tiến ngư cụ khai thác cá kình theo nguyên tắc bắt được cá kình sống càngnhiều càng tốt, có thể áp dụng cách vớt cá bột sông Hồng vào việc vớt cá kình ở cửasông. 3- Để tránh gây sốc cho cá kình, cần thuần hóa (bằng cách hạ độ mặn) trước khithả nuôi ở vùng có độ mặn thấp. 4- Có chính sách trợ giá cua giống cho các cơ sở sản xuất giống trong tỉnh. 5- Tuyên truyền sâu rộng chủ trương chuyển đổi cũng như ý thức của người dântrong việc đánh bắt các loài thủy sản có giá trị kinh tế phục vụ cho việc nuôi xen ghép. 6- Nghiên cứu các đặc điểm sinh học của cá kình, mùa vụ xuất hiện giống làmcơ sở cho công tác chuyển đổi. 2.2 Hoàn thiện quy trình kỹ thuật nuôi Trước đây, chỉ nuôi tôm sú năng suất từ 2 – 3 tấn/ha thì yêu cầu kỹ thuật đặt rakhá chặt chẽ và chi phí cho việc xử lý ao hồ cũng không dưới 10 triệu đồng/ha. Ngày nay, khi mọi việc đã thay đổi, người dân có xu hướng thả thưa và nuôihỗn hợp nhiều đối tượng thì việc áp dụng quy trình kỹ thuật cần điều chỉnh để sát vớitình hình thực tế. Đối với những ao hồ quá sâu, không có khả năng phơi đáy và khi bơm tát có thểlàm vỡ đê, giải pháp tốt nhất là dùng sáo để thẩy (bắt) hoặc lưới kéo bớt cá tạp rồi thảthẳng tôm sú 45 ngày tuổi, cá kình, cua với mật độ thưa. Đối với những ao hồ có diện tích lớn (từ 2 ha trở lên) không có kinh phí để xửlý ao hồ thì nên áp dụng hình thức nuôi quảng canh cải tiến bằng cách: xử lý 1/3 diệntích ao, ương tôm P15 đủ nhu cầu của gia đình. Sau 45 ngày bung tôm ra phần diệntích còn lại với mật độ 2 con tôm/m2 + 0,5 con cá kình/m2 + 30 kg cua giống/ha. Với những ao hồ có khả năng xử lý, cần tuân thủ nguyên tắc hạn chế tối đa đầuvào không cần thiết, chú trọng nhiều đến việc dùng vôi và đúc rút kinh nghiệm của giađình và địa phương để lựa chọn cách nuôi phù hợp với tài chính và quản lý của giađình. 3. Tiêu thụ sản phẩm Cá kình, cua, cá dìa, cá đối, cá nâu là những đối tượng dễ tiêu thụ nội địa. Từ trước đến nay chưa có tình trạnh dư thừa hoặc bán với giá quá thấp, sảnphẩm của các loài này mặc nhiên được người tiêu dùng chấp nhận. Mặt khác, chúng rất khó nâng cao năng suất vì con giống phụ thuộc tự nhiên vànếu nuôi quá dày sẽ không lớn. Vì vậy, trong kế hoạch chuyển đổi của các địa phương việc tiêu thụ sản phẩmkhông phải là quá khó khăn. Tuy nhiên, khi phong trào nuôi xen ghép phát triển cũngphải tính đến phương án đầu ra cho sản phẩm. Trên đây là ý kiến của cá nhân đối với nuôi xen trên vùng đầm phá, hy vọng sẽđóng góp một phần cho sự ổn định của nghề nuôi thủy sản. ...

Tài liệu được xem nhiều: