Danh mục

Suy thoái rừng luồng - nhìn từ góc độc kỹ thuật

Số trang: 5      Loại file: pdf      Dung lượng: 156.27 KB      Lượt xem: 18      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí tải xuống: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (5 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Luồng là cây truyền thống của Thanh Hóa, phân bố chủ yếu ở các huyện miền núi. Luồng có nhiều công dụng: Làm nhà ở, sử dụng trong kiến trúc, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, nguyên liệu cho công nghiệp giấy sợi, v.v... Rừng luồng có tác dụng phòng hộ và duy trì cân bằng sinh thái. Luồng dễ trồng, sau 7 năm cho khai thác lứa đầu. Chi phí trồng, chăm sóc, ít tốn kém, thu hoạch hàng năm. Tuổi thọ của luồng khá cao, nếu chăm sóc bảo vệ tốt có thể tới hàng trăm...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Suy thoái rừng luồng - nhìn từ góc độc kỹ thuật Suy thoái rừng luồng - nhìn từ góc độc kỹ thuật Luồng là cây truyền thống của Thanh Hóa, phân bố chủ yếu ở các huyệnmiền núi. Luồng có nhiều công dụng: Làm nhà ở, sử dụng trong kiến trúc, sảnxuất hàng thủ công mỹ nghệ, nguyên liệu cho công nghiệp giấy sợi, v.v... Rừngluồng có tác dụng phòng hộ và duy trì cân bằng sinh thái. Luồng dễ trồng, sau 7 năm cho khai thác lứa đầu. Chi phí trồng, chăm sóc, íttốn kém, thu hoạch hàng năm. Tuổi thọ của luồng khá cao, nếu chăm sóc bảo vệ tốt cóthể tới hàng trăm năm. Tính đến nay toàn tỉnh đã trồng được 68.000ha luồng, mỗi năm cung cấp chothị trường hàng chục triệu cây. Trong đó diện tích đã có từ 1972 trở về trước là11.000ha. Riêng trong 10 năm phát động cao trào trồng luồng (1972-1982) đã trồngthêm được 28.000ha, đạt trên 50% mục tiêu phát động (50.000ha). Riêng năm 1973năm đầu thực hiện cuộc vận động đã trồng được 7.900ha. Các huyện Quan Hóa, QuanSơn, Bá Thước, Lang Chánh, Ngọc Lạc được coi là vùng trọng điểm luồng. Ngoài raluồng còn được trồng nhiều ở Cẩm Thủy, Thạch Thành và một số địa phương thuộcvùng bán sơn địa trong tỉnh. Là cây có vị thế kinh tế quan trọng, nhưng luồng Thanh Hóa cũng đã từng trảiqua bao thăng trầm, có thời kỳ do giá cả quá thấp đến mức không bằng một cây mía,hay do đói kém mà cây luồng thì không thể luộc lên để ăn được, nên đã bị người dânở một số địa phương phá bớt đi để lấy đất trồng lương thực. Ngày nay, nhờ chính sách mở cửa và hội nhập, nên cây luồng đã có mặt trongNam ngoài Bắc, sản phẩm chế biến từ cây luồng được xuất khẩu sang các nước trongkhu vực và thế giới, cây luồng đang lấy lại vị thế là cây có giá trị kinh tế cao ở miềnnúi, cây xóa đói giảm nghèo, cây nguyên liệu chủ lực của nhà máy giấy Châu Lộctrong tương lai. Tuy nhiên, hiện nay nhiều rừng luồng đang trên đà suy thoái, giảm cả về chấtlượng và năng suất, mặc dù diện tích luồng không ngừng tăng lên. Tính sơ bộ chothấy, nếu khai thác 70% diện tích hiện có, năng suất khiêm tốn 600cây/ha, thì mỗi nămsản lượng khoảng 24triệu cây, nhưng thực tế trong nhiều năm bình quân cũng chỉ trêndưới chục triệu cây. Hiện nay luồng loại I, II giảm đáng kể, loại IV, V, VI và cây sâubệnh, còi cọc, cụt ngọn, cây không có giá trị kinh tế và giá trị sử dụng chiếm đa phần. Nguyên nhân tình hình trên chủ yếu là do không thực hiện nghiêm túc các yêucầu kỹ thuật từ khâu trồng, chăm sóc, đến khai thác, sử dụng rừng luồng. Cụ thể là:Nhiều rừng luồng đã bị khai thác quá mức thay vì khai thác chọn, khai thác không điđôi với tái sinh, khai thác cả cây non, cây để giống, gốc chặt để quá cao. Các cây sâubệnh, cụt ngọn, còi cọc, không được chặt bỏ, giây leo cỏ dại lấn át, không gian dinhdưỡng bị hạn chế, ảnh hưởng đến sinh trưởng của luồng v.v... Quy trình trồng xen cây thân gỗ được đề ra từ những năm 70 của thế kỷ trướcnhưng không được chỉ đạo thực hiện, tập quán trồng luồng quảng canh vẫn là chủ yếu,trong chỉ đạo ít chú ý đến chất lượng và thâm canh theo hướng bền vững gắn với môitrường sinh thái. Về khách quan, một mặt do đất đai đã bị thoái hóa theo thời gian, mặt khácluồng là cây có bộ rễ ăn nông, lá luồng có đặc điểm là chậm phân hủy, chất mùn sauphân hủy của rễ và lá luồng rất nghèo dinh dưỡng, thảm thực vật dưới tán rừng luồngkhá mỏng, nên tác dụng chống rửa trôi rất hạn chế. Mật độ rừng luồng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến không gian dinh dưỡng vàtuổi thọ của rừng luồng. Phần lớn diện tích luồng được trồng thời kỳ những năm 70 vàđầu những năm 80 của thế kỷ trước, mật độ được quy định lúc đó là 400 gốc/ha. Trảiqua hàng chục năm phát triển, bụi luồng ngày càng lan rộng ra xung quanh, nên khảnăng quang hợp bị hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến sinh trưởng phát triển củaluồng. Để khắc phục tình trạng trên, cần thiết phải triển khai một số biện pháptrước mắt: Thứ nhất: Cần triển khai ngay các biện pháp hành chính và kỹ thuật như: nghiêm cấmkhai thác luồng trong mùa măng, cấm lưu thông măng luồng trong thời kỳ ra mănghữu hiệu,(khoảng từ mồng 5- 15/7). Chỉ được sử dụng măng cuối vụ, gọi là lứa măngrươi và măng chét, tức lứa măng ra khoảng thời gian từ 25/7- 30/8 và tới 15/9. Cấmchặt cây non, để lại cây to làm giống với tỷ lệ hợp lý. Tiến hành làm vệ sinh cho từngbụi luồng, bao gồm chặt bỏ các cây còi cọc, sâu bệnh, cụt ngọn, cây không có giá trịsử dụng và giá trị kinh tế. Đào bỏ các gốc chặt quá cao, phát dọn dây leo cỏ dại xungquanh bụi luồng, khai thác hết cây già cỗi, có thể cuốc xới, vun gốc, bón phân chonhững bụi luồng đã và đang suy thoái nhưng còn khả năng hồi phục, kiên quyết trồnglại hoặc trồng dặm đối với những rừng luồng đã thoái hóa hoặc mật độ còn dưới200bụi/ha, v.v... Thứ hai: Xây dựng một số mô hình về thâm canh luồng theo mục đích kinh doanh, nhưkinh doanh cây luồng hàng hóa, luồng nguyên liệu giấy, luồng ...

Tài liệu được xem nhiều: