Tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp nông thôn: Tổng hợp từ nghiên cứu trong nước và quốc tế
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 276.87 KB
Lượt xem: 14
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Bài viết này có mục tiêu là tổng hợp lại các nghiên cứu trong và ngoài nước về tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 2 phần chính, ở phần thứ nhất sẽ là tổng hợp các nghiên cứu ở nước ngoài và phần tiếp theo là tổng hợp các nghiên cứu ở Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp nông thôn: Tổng hợp từ nghiên cứu trong nước và quốc tế TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN: TỔNG HỢP TỪ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ PGS. TS. Vũ Sỹ Cường Học viện Tài chính Đặt vấn đề Việt Nam là một quốc gia có truyền thống nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, nông nghiệp được coi là một yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế nói chung. Đặc biệt, kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, thương mại nông nghiệp đã có đóng góp lớn cho các nguồn ngoại tệ, tăng thu nhập nông thôn và cải thiện điều kiện sống ở khu vực nông thôn. Tài chính toàn diện (financial inclusion) hay còn gọi là tài chính bao trùm, được hiểu khái quát là các dịch vụ tài chính được cung ứng tới mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với nhóm người dễ bị tổn thương, theo cách thức thuận tiện và phù hợp với nhu cầu, nhằm thông qua đó góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Tài chính toàn diện được coi là một trong những trụ cột quan trọng trong phát triển bền vững. Mục tiêu của tài chính toàn diện là tăng cơ hội tiếp cận nguồn lực tài chính với mọi người dân, nhất là ở nhưng khu vực khó khăn như nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, tín dụng được coi là một công cụ hỗ trợ cho phát triển kinh tế nông thôn nói chung và hoạt động kinh tế hộ gia đình nói riêng. Vấn đề đặt ra là liệu chính sách tín dụng và hỗ trợ mang tính tiếp cận tích cực từ nhà nước sẽ mang lại những hiệu quả như thế nào trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bài viết này có mục tiêu là tổng hợp lại các nghiên cứu trong và ngoài nước về tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 2 phần chính, ở phần thứ nhất sẽ là tổng hợp các nghiên cứu ở nước ngoài và phần tiếp theo là tổng hợp các nghiên cứu ở Việt Nam. 1. Tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp nông thôn: tổng hợp các nghiên cứu quốc tế Tuy còn nhiều tranh cãi về phương pháp, phần lớn các nghiên cứu trên thế giới về tín dụng nông nghiệp đều cho rằng một chính sách chủ động và hiệu quả từ Nhà nước sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp. Glover & Kusterer (2016), trong một nghiên cứu so sánh giữa nhiều nước phát triển, cho rằng một chính sách tín dụng hợp lý, phối hợp giữa nhà tài trợ quốc tế, Nhà nước, doanh nghiệp, và ngân hàng sẽ giúp ngành nông nghiệp phát triển theo hướng dựa vào thị trường, hình thành ngành kinh doanh chuyên nghiệp cho nông dân. Các nghiên cứu về tác động của tín dụng đặc biệt là tín dụng vi mô như Morduch, (1998), Mosley và Hulme, (1998), Copestake, Bhalotra, và Johnson, (2001); Zaman (2001), cho thấy thấy có cả những tác động tích cực và tiêu cực, trong đó hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô thường mang lại lợi ích cho nhóm nghèo nhưng lại không mang đến lợi ích cho nhóm nghèo nhất. Bên cạnh đó, Rutherford, (1996) chứng minh rằng hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các khoản vay cho người nghèo nhưng chưa hướng đến việc nâng cao năng lực cho người nghèo quản lý những đồng tiền của họ một cách tốt hơn. Các khoản vay tài trợ bởi tổ chức tài chính vi mô có thực sự cải thiện thu nhập của những người nông dân nghèo nói riêng và những người nghèo nói chung cũng là vấn đề đáng quan tâm. Những nghiên cứu của Rahman(1998), Mayoux(1999), Husain, Mukherjee, và Dutta(2010), cho thấy cần có sự kết hợp giữa hoạt động cho vay của tổ chức tài chính vi mô với các hoạt động can thiệp khác của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả tổng thể của sự can thiệp, hướng tới mục tiêu cải thiện phúc lợi người nghèo. 203 Nghiên cứu của Karmakar K.G. (2000) đã nhận thấy, sử dụng các nguồn vốn tín dụng bất hợp lý sẽ dẫn tới hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển của khu vực nông thôn bị giảm, mặc dù kết quả này có thể không ảnh hưởng nặng nề đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, Karmakar đã chứng minh được rằng, các chương trình tín dụng không phù hợp sẽ khiến các hộ nông dân rơi vào bẫy nghèo đói. Tác giả đã lập luận rằng việc chính thức hoá thị trường vốn sẽ khiến cho người nông dân mất cơ hội tiếp cận vốn tín dụng. Trong bối cảnh đó, tác giả lập luận rằng các hình thức tín dụng vi mô vẫn có vai trò quan trọng đối với người nghèo, hướng tới mục tiêu giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Một trong những nguyên nhân quan trọng, theo Karmakar K.G. (2000) dẫn tới sự kém hiệu quả của các chương trình tín dụng nông thôn truyền thống là cơ chế thu hồi vốn thực hiện ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp nông thôn: Tổng hợp từ nghiên cứu trong nước và quốc tế TÁC ĐỘNG CỦA TÍN DỤNG VỚI PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN: TỔNG HỢP TỪ NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ PGS. TS. Vũ Sỹ Cường Học viện Tài chính Đặt vấn đề Việt Nam là một quốc gia có truyền thống nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Vì vậy, trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, nông nghiệp được coi là một yếu tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế nói chung. Đặc biệt, kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa, thương mại nông nghiệp đã có đóng góp lớn cho các nguồn ngoại tệ, tăng thu nhập nông thôn và cải thiện điều kiện sống ở khu vực nông thôn. Tài chính toàn diện (financial inclusion) hay còn gọi là tài chính bao trùm, được hiểu khái quát là các dịch vụ tài chính được cung ứng tới mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là đối với nhóm người dễ bị tổn thương, theo cách thức thuận tiện và phù hợp với nhu cầu, nhằm thông qua đó góp phần tạo cơ hội sinh kế, luân chuyển dòng vốn đầu tư và tiết kiệm trong xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Tài chính toàn diện được coi là một trong những trụ cột quan trọng trong phát triển bền vững. Mục tiêu của tài chính toàn diện là tăng cơ hội tiếp cận nguồn lực tài chính với mọi người dân, nhất là ở nhưng khu vực khó khăn như nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, tín dụng được coi là một công cụ hỗ trợ cho phát triển kinh tế nông thôn nói chung và hoạt động kinh tế hộ gia đình nói riêng. Vấn đề đặt ra là liệu chính sách tín dụng và hỗ trợ mang tính tiếp cận tích cực từ nhà nước sẽ mang lại những hiệu quả như thế nào trong việc phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bài viết này có mục tiêu là tổng hợp lại các nghiên cứu trong và ngoài nước về tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp và nông thôn. Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 2 phần chính, ở phần thứ nhất sẽ là tổng hợp các nghiên cứu ở nước ngoài và phần tiếp theo là tổng hợp các nghiên cứu ở Việt Nam. 1. Tác động của tín dụng với phát triển nông nghiệp nông thôn: tổng hợp các nghiên cứu quốc tế Tuy còn nhiều tranh cãi về phương pháp, phần lớn các nghiên cứu trên thế giới về tín dụng nông nghiệp đều cho rằng một chính sách chủ động và hiệu quả từ Nhà nước sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp. Glover & Kusterer (2016), trong một nghiên cứu so sánh giữa nhiều nước phát triển, cho rằng một chính sách tín dụng hợp lý, phối hợp giữa nhà tài trợ quốc tế, Nhà nước, doanh nghiệp, và ngân hàng sẽ giúp ngành nông nghiệp phát triển theo hướng dựa vào thị trường, hình thành ngành kinh doanh chuyên nghiệp cho nông dân. Các nghiên cứu về tác động của tín dụng đặc biệt là tín dụng vi mô như Morduch, (1998), Mosley và Hulme, (1998), Copestake, Bhalotra, và Johnson, (2001); Zaman (2001), cho thấy thấy có cả những tác động tích cực và tiêu cực, trong đó hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô thường mang lại lợi ích cho nhóm nghèo nhưng lại không mang đến lợi ích cho nhóm nghèo nhất. Bên cạnh đó, Rutherford, (1996) chứng minh rằng hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp các khoản vay cho người nghèo nhưng chưa hướng đến việc nâng cao năng lực cho người nghèo quản lý những đồng tiền của họ một cách tốt hơn. Các khoản vay tài trợ bởi tổ chức tài chính vi mô có thực sự cải thiện thu nhập của những người nông dân nghèo nói riêng và những người nghèo nói chung cũng là vấn đề đáng quan tâm. Những nghiên cứu của Rahman(1998), Mayoux(1999), Husain, Mukherjee, và Dutta(2010), cho thấy cần có sự kết hợp giữa hoạt động cho vay của tổ chức tài chính vi mô với các hoạt động can thiệp khác của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả tổng thể của sự can thiệp, hướng tới mục tiêu cải thiện phúc lợi người nghèo. 203 Nghiên cứu của Karmakar K.G. (2000) đã nhận thấy, sử dụng các nguồn vốn tín dụng bất hợp lý sẽ dẫn tới hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển của khu vực nông thôn bị giảm, mặc dù kết quả này có thể không ảnh hưởng nặng nề đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong cuốn sách của mình, Karmakar đã chứng minh được rằng, các chương trình tín dụng không phù hợp sẽ khiến các hộ nông dân rơi vào bẫy nghèo đói. Tác giả đã lập luận rằng việc chính thức hoá thị trường vốn sẽ khiến cho người nông dân mất cơ hội tiếp cận vốn tín dụng. Trong bối cảnh đó, tác giả lập luận rằng các hình thức tín dụng vi mô vẫn có vai trò quan trọng đối với người nghèo, hướng tới mục tiêu giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Một trong những nguyên nhân quan trọng, theo Karmakar K.G. (2000) dẫn tới sự kém hiệu quả của các chương trình tín dụng nông thôn truyền thống là cơ chế thu hồi vốn thực hiện ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tài chính toàn diện Tín dụng nông nghiệp Tài chính nông thôn Phát triển nông nghiệp Tài chính doanh nghiệpGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
360 trang 769 21 0 -
18 trang 461 0 0
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 439 15 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 421 12 0 -
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 380 1 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 370 10 0 -
3 trang 302 0 0
-
Tạo nền tảng phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam
3 trang 288 0 0 -
Đề cương học phần Tài chính doanh nghiệp
20 trang 285 0 0 -
Bài giảng: Chương 2: Bảo hiểm hàng hải
94 trang 268 1 0