Tác động của vốn FDI đến nền kinh tế và giải pháp sử dụng hiệu quả
Số trang: 6
Loại file: pdf
Dung lượng: 257.25 KB
Lượt xem: 13
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Sau 30 năm, nguồn vốn FDI đã trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn, những hệ lụy trong quá trình thu hút FDI cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc sàng lọc các dự án, các nhà đầu tư để việc thu hút vốn FDI ngày càng hiệu quả và chất lượng.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của vốn FDI đến nền kinh tế và giải pháp sử dụng hiệu quả TÁC ĐỘNG CỦA VỐN FDI ĐẾN NỀN KINH TẾ VÀ GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Trang Trường Đại học Kinh tế Kĩ thuật Công nghiệp Tóm tắt Sau 30 năm, nguồn vốn FDI đã trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn, những hệ lụy trong quá trình thu hút FDI cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc sàng lọc các dự án, các nhà đầu tư để việc thu hút vốn FDI ngày càng hiệu quả và chất lượng. Từ khóa: Nguồn vốn FDI, Chuyển giá, Trốn thuế, Ô nhiễm môi trường I. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN NỀN KINH TẾ Năm 2017, Việt Nam thu hút 2.591 dự án FDI mới, với tổng 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn so với cùng kỳ năm 2016; có 1.188 lượt dự án tăng vốn đầu tư đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2%; có 5.002 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016. Vốn FDI thực hiện ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 47,6% tổng vốn đăng ký mới và bổ sung; Thanh Hóa có số vốn FDI đăng ký lớn nhất, chiếm 14,8% tổng vốn đăng ký cấp mới của 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới và Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký cấp mới trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong năm 2017. Nhìn chung, đến nay, FDI đã có mặt ở cả 63 tỉnh thành trong cả nước và ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực, từ khai khoáng, nông - lâm nghiệp đến công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ như bất động sản, y tế, giáo dục, khách sạn,... công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất (53,8%), tiếp theo là dịch vụ bất động sản (20,9%), còn lại các ngành khác có tỷ trọng dưới 5%. Tổng cộng có 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hong Kông… Khu vực doanh nghiệp FDI đang chiếm khoảng 25% trong tổng đầu tư xã hội (tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, trong đó: Vốn khu vực nhà nước chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước 290 chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực FDI chiếm 23,8% và tăng 12,8%); đóng góp 18,7% GDP, khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo ra là 3,2 triệu việc làm (năm 2013) và chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm (riêng Samsung tại Việt Nam mỗi năm đã xuất khẩu khoảng 30 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng xuất khẩu của Việt Nam) và tạo động lực tích cực cải thiện cơ cấu xuất khẩu và cân đối ngoại thương của Việt Nam. Hiện có khoảng 30 doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Có thể nói trong 30 năm qua, nguồn vốn FDI đã đóng góp hết sức tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc thu hút FDI đã bổ sung nguồn vốn lớn vào đầu tư phát triển kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân, đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng hiện đại, góp phần hiện đại hóa các đô thị, công nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh những đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội thì những bất cập, hệ lụy mà khu vực FDI để lại cho Việt Nam rất nghiêm trọng. Một trong những mất mát lớn của Việt Nam chính là có nhiều DN FDI khi hoạt động tại Việt Nam đã gây ra các sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Năm 2008, Công ty TNHH Vedan Việt Nam (Đài Loan - Trung Quốc) làm cho sông Thị Vải (Đồng Nai) bị ô nhiễm 80 – 90%. Công ty TNHH Miwon Việt Nam tại Phú Thọ đã nhiều lần bị phát hiện xả nước thải chưa đạt tiêu chuẩn. Năm 2015, Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 tỉnh Bình Thuận xả khói bụi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khiến người dân địa phương đã phong tỏa quốc lộ 1 để phản đối. Và thảm họa ô nhiễm môi trường tại 4 tỉnh miền Trung vào tháng 4/2016 do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Đài Loan) gây ra là đỉnh điểm của vấn nạn này. Ông Phan Hữu Thắng từng đánh giá, đây là thất bại lớn nhất trong thu hút và quản lý FDI của Việt Nam. Bên cạnh đó, dù được kỳ vọng nhiều song đến nay, kết nối giữa các DN FDI và DN cung ứng trong nước còn tương đối yếu. Khu vực FDI đa phần còn hoạt động riêng lẻ thay vì đóng vai trò chung làm xúc tác tăng trưởng do tác động lan tỏa đến khu vực tư nhân trong nước còn hạn chế. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã và đang phải đối phó với vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Chỉ riêng tại TP.HCM, dù các doanh nghiệp FDI đóng góp quan trọng cho kinh tế - xã hội của thành phố trong những năm qua, nhưng cũng đang phát sinh nhiều vấn đề đáng chú ý, điển hình là tình trạng khai lỗ trong khu vực DN này còn phổ biến. Theo Cục Thuế TP.HCM, trong năm 2017, đơn vị đã thực hiện thanh tra 99 doanh nghiệp có giao dịch liên kết, truy thu được trên 116 tỷ đồng, giảm lỗ trên 871 tỷ đồng, 291 giảm khấu trừ trên 1,3 tỷ đồng. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp mặc dù khai lỗ nhưng vẫn bị ấn định và truy thu với số thuế từ 2 đến 16 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có thể nói, trong 30 năm qua, nguồn vốn FDI đã đóng góp khoảng 19% GDP của Việt Nam, khoảng ¼ tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tạo ra hàng triệu việc làm trong khu vực doanh nghiệp, tương đương với 7% lực lượng lao động của Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập như đã đề cập ở trên. Bởi vậy cần có hệ thống giải pháp đồng bộ để sáng lọc các dự án và sử dụng vốn FDI một cách hiệu quả. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN FDI Về pháp luật, chính sách ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động của vốn FDI đến nền kinh tế và giải pháp sử dụng hiệu quả TÁC ĐỘNG CỦA VỐN FDI ĐẾN NỀN KINH TẾ VÀ GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HIỆU QUẢ ThS. Nguyễn Thị Quỳnh Trang Trường Đại học Kinh tế Kĩ thuật Công nghiệp Tóm tắt Sau 30 năm, nguồn vốn FDI đã trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn, những hệ lụy trong quá trình thu hút FDI cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc sàng lọc các dự án, các nhà đầu tư để việc thu hút vốn FDI ngày càng hiệu quả và chất lượng. Từ khóa: Nguồn vốn FDI, Chuyển giá, Trốn thuế, Ô nhiễm môi trường I. TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN NỀN KINH TẾ Năm 2017, Việt Nam thu hút 2.591 dự án FDI mới, với tổng 21,3 tỷ USD, tăng 3,5% về số dự án và tăng 42,3% về vốn so với cùng kỳ năm 2016; có 1.188 lượt dự án tăng vốn đầu tư đạt 8,4 tỷ USD, tăng 49,2%; có 5.002 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần là 6,2 tỷ USD, tăng 45,1% so với năm 2016. Vốn FDI thực hiện ước đạt 17,5 tỷ USD, tăng 10,8% so với năm 2016. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 47,6% tổng vốn đăng ký mới và bổ sung; Thanh Hóa có số vốn FDI đăng ký lớn nhất, chiếm 14,8% tổng vốn đăng ký cấp mới của 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới và Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký cấp mới trong số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong năm 2017. Nhìn chung, đến nay, FDI đã có mặt ở cả 63 tỉnh thành trong cả nước và ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực, từ khai khoáng, nông - lâm nghiệp đến công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ như bất động sản, y tế, giáo dục, khách sạn,... công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng cao nhất (53,8%), tiếp theo là dịch vụ bất động sản (20,9%), còn lại các ngành khác có tỷ trọng dưới 5%. Tổng cộng có 101 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, Hong Kông… Khu vực doanh nghiệp FDI đang chiếm khoảng 25% trong tổng đầu tư xã hội (tổng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 1.667,4 nghìn tỷ đồng, tăng 12,1% so với năm 2016 và bằng 33,3% GDP, trong đó: Vốn khu vực nhà nước chiếm 35,7% tổng vốn và tăng 6,7% so với năm trước; khu vực ngoài nhà nước 290 chiếm 40,5% và tăng 16,8%; khu vực FDI chiếm 23,8% và tăng 12,8%); đóng góp 18,7% GDP, khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước, tạo ra là 3,2 triệu việc làm (năm 2013) và chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm (riêng Samsung tại Việt Nam mỗi năm đã xuất khẩu khoảng 30 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng xuất khẩu của Việt Nam) và tạo động lực tích cực cải thiện cơ cấu xuất khẩu và cân đối ngoại thương của Việt Nam. Hiện có khoảng 30 doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Có thể nói trong 30 năm qua, nguồn vốn FDI đã đóng góp hết sức tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc thu hút FDI đã bổ sung nguồn vốn lớn vào đầu tư phát triển kinh tế, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân, đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Việt Nam theo hướng hiện đại, góp phần hiện đại hóa các đô thị, công nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh những đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội thì những bất cập, hệ lụy mà khu vực FDI để lại cho Việt Nam rất nghiêm trọng. Một trong những mất mát lớn của Việt Nam chính là có nhiều DN FDI khi hoạt động tại Việt Nam đã gây ra các sự cố ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Năm 2008, Công ty TNHH Vedan Việt Nam (Đài Loan - Trung Quốc) làm cho sông Thị Vải (Đồng Nai) bị ô nhiễm 80 – 90%. Công ty TNHH Miwon Việt Nam tại Phú Thọ đã nhiều lần bị phát hiện xả nước thải chưa đạt tiêu chuẩn. Năm 2015, Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2 tỉnh Bình Thuận xả khói bụi gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng khiến người dân địa phương đã phong tỏa quốc lộ 1 để phản đối. Và thảm họa ô nhiễm môi trường tại 4 tỉnh miền Trung vào tháng 4/2016 do Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Đài Loan) gây ra là đỉnh điểm của vấn nạn này. Ông Phan Hữu Thắng từng đánh giá, đây là thất bại lớn nhất trong thu hút và quản lý FDI của Việt Nam. Bên cạnh đó, dù được kỳ vọng nhiều song đến nay, kết nối giữa các DN FDI và DN cung ứng trong nước còn tương đối yếu. Khu vực FDI đa phần còn hoạt động riêng lẻ thay vì đóng vai trò chung làm xúc tác tăng trưởng do tác động lan tỏa đến khu vực tư nhân trong nước còn hạn chế. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã và đang phải đối phó với vấn đề chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Chỉ riêng tại TP.HCM, dù các doanh nghiệp FDI đóng góp quan trọng cho kinh tế - xã hội của thành phố trong những năm qua, nhưng cũng đang phát sinh nhiều vấn đề đáng chú ý, điển hình là tình trạng khai lỗ trong khu vực DN này còn phổ biến. Theo Cục Thuế TP.HCM, trong năm 2017, đơn vị đã thực hiện thanh tra 99 doanh nghiệp có giao dịch liên kết, truy thu được trên 116 tỷ đồng, giảm lỗ trên 871 tỷ đồng, 291 giảm khấu trừ trên 1,3 tỷ đồng. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp mặc dù khai lỗ nhưng vẫn bị ấn định và truy thu với số thuế từ 2 đến 16 tỷ đồng/doanh nghiệp. Có thể nói, trong 30 năm qua, nguồn vốn FDI đã đóng góp khoảng 19% GDP của Việt Nam, khoảng ¼ tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tạo ra hàng triệu việc làm trong khu vực doanh nghiệp, tương đương với 7% lực lượng lao động của Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều bất cập như đã đề cập ở trên. Bởi vậy cần có hệ thống giải pháp đồng bộ để sáng lọc các dự án và sử dụng vốn FDI một cách hiệu quả. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN FDI Về pháp luật, chính sách ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Phát triển kinh tế bền vững Nguồn vốn FDI Quá trình thu hút FDI Chính sách thu hút FDI Khu vực doanh nghiệp FDIGợi ý tài liệu liên quan:
-
8 trang 350 0 0
-
6 trang 200 0 0
-
Đổi mới tư duy về phát triển bền vững: Nhìn từ hai cách tiếp cận phát triển bền vững
5 trang 176 0 0 -
6 trang 172 0 0
-
Cần đào tạo kiến thức kinh tế thị trường và phát triển bền vững cho cán bộ cấp cơ sở vùng Tây Bắc
7 trang 172 0 0 -
3 trang 169 0 0
-
19 trang 166 0 0
-
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam hiện nay: Rào cản và giải pháp tháo gỡ
11 trang 165 0 0 -
Thúc đẩy tăng trưởng xanh để phát triển kinh tế bền vững
3 trang 164 0 0 -
Phát triển thể chế liên kết vùng: Triển vọng cho phát triển bền vững ở vùng Tây Bắc
6 trang 151 0 0