Tác động kinh tế - xã hội của Hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA)
Số trang: 19
Loại file: pdf
Dung lượng: 659.90 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Nghiên cứu này phục vụ hai mục đích cụ thể. Một là, báo cáo nhằm đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” EVFTA đến nền kinh tế Việt Nam. Hai là, nghiên cứu xác định những chuẩn bị liên quan ở cả cấp chính sách và doanh nghiệp để đảm bảo rằng việc thực hiện hai FTA “thế hệ mới” này sẽ tạo ra lợi ích ròng tối đa cho nền kinh tế Việt Nam.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động kinh tế - xã hội của Hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÁC ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO EU – VIỆT NAM (EVFTA) TS. Huỳnh Thị Diệu Linh Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 1. Giới thiệu Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam hiện là một trong những nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất trong khu vực ASEAN, chỉ thấp hơn Singapore. Tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ cùng với cải thiện đáng kể trong quy định về quyền sở hữu trí tuệ (IPR) cũng làm thay đổi cơ cấu thương mại. Trong năm 2018, Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước lập kỷ lục, đạt 480,17 tỷ USD, tăng hơn 52 tỷ USD về mặt số tuyệt đối so với kết quả thực hiện của một năm trước đó. Kết quả này vẫn còn thấp hơn mức tăng tuyệt đối 76,75 tỷ USD của năm 2017 so với năm 2016. Như vậy, chỉ số độ mở của nền kinh tế Việt Nam (xuất nhập khẩu hàng hóa/GDP) trong năm 2018 ước tính là 196%. Theo WTO, trong năm 2017, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam có vị trí thứ 27 trên thế giới và nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam có thứ hạng 25 trên phạm vi toàn cầu. Kết quả ấn tượng này là nhờ vào quá trình cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với việc hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Từ năm 1995, Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác hàng đầu trong hệ thống kinh tế thế giới như Cộng đồng Châu Âu, Mỹ. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối thương mại, đầu tư và hội nhập chính trị tích cực trong phạm vi ASEAN với việc tham gia vào những cam kết mới có tính tham vọng hơn về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Trong mấy năm gần đây, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam bắt đầu hội nhập kinh tế theo khung khổ ưu đãi đặc biệt với một số đối tác, với việc Việt Nam tham gia vào năm hiệp định thương mại tự do (FTA): ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản và ASEAN-Úc-Niu Di-lân. Gần đây, nhờ có sức hút về kinh tế, Việt Nam đã bắt đầu đàm phàn FTA với một số đối tác tiềm năng khác, như Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Trong những năm gần đây, hình thức FTA (Free Trade Agreement) “thế hệ mới” song phương hoặc đa phương ngày càng trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác rộng hơn, và dần sẽ có khả năng thay thế cho các thỏa thuận thương mại thế hệ cũ. Một số lượng khá lớn các FTA đã được kí kết và thực hiện gần đây thu hút được rất nhiều sự chú ý, quan sát và đánh giá các tác động xung quanh các hiệp định này, ví dụ như Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP), EVFTA, CPTPP, …. Xu hướng tham gia đàm phán và kí kết các FTA “thế hệ mới” đã trở thành xu thế tất yếu trong thời điểm hiện nay, khi mà sự hợp tác kinh tế song phương hoặc đa phương không còn chỉ dừng ở mức là cắt giảm thuế quan mà còn liên quan đến các vấn đề quan trong khác như lao động, bảo vệ môi trường, khai thác đánh bắt có chọn lọc, hay thậm chí là xã hội dân sự. Hiện nay theo cách xác định của một số tổ chức nghiên cứu trên thế giới, cũng như tại Việt Nam thì chúng ta chỉ mới có 2 FTA “thế hệ mới” đã kết thúc việc đàm phán đó là CPTPP và EVFTA, trong đó CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ 01/2019 (Hiền & Bích, 2016; Ninh, 2019; Wang, 2018). Việc xem xét và đánh giá những tác động (có thể xảy ra) của 2 FTA này là vô cùng quan trọng, khi mà xu hướng tham gia kí kết các FTA mới sẽ tuân theo các bộ quy tắc do 2 FTA này đã tạo ra. Nghiên cứu này phục vụ hai mục đích cụ thể. Một là, báo cáo nhằm đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” EVFTA đến nền kinh tế Việt Nam. Để làm được điều này, báo cáo cập nhật nội dung những tài liệu nghiên cứu sẵn có (như các báo cáo của Dự án MUTRAP 2011; European Commission, 2017; v.v.) về đánh giá tác động của EVFTA. Hai là, nghiên cứu xác định những chuẩn bị liên quan ở cả cấp chính sách và doanh nghiệp để đảm bảo rằng việc thực hiện hai FTA “thế hệ mới” này sẽ tạo ra lợi ích ròng tối đa cho nền kinh tế Việt Nam. Sự chuẩn bị này là rất cần thiết vì với phạm vi và mức độ của 107 Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng các hiệp định này có thể đưa đến những cơ hội và thách thức chưa từng có với hoạt động kinh doanh và đầu tư. 2. Tổng quan về quan hệ thương mại EU-Việt Nam Trong khi Việt Nam là một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển nhanh với tốc độ tăng GDP bình quân là 6,4% trong giai đoạn 2000 – 2017, thì EU lại có tốc độ phát triển không đều, thậm chí tốc độ tăng GDP của EU còn có giá trị âm trong các năm 2009 và 2012. Trong năm 2017, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,8%, cao gần gấp 3 lần tốc độ tăng của EU, 2,4%. Tuy nhiên để so sánh 2 nền kinh tế thì chúng ta cần phải nhìn nhận một thực tế là EU và Việt Nam là 2 đối tác không hề tương đồng trong rất nhiều khía cạnh. Đầu tiên, nền kinh tế của EU lớn hơn và có sức ảnh hưởng hơn rất nhiều so với Việt Nam. Tổng GDP của EU gấp 80 lần so với GDP của Việt Nam, trong khi dân số chỉ gấp 5 lần. Điều đó dẫn đến một khía cạnh tiếp theo là thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ khoảng bằng 1/15 so với thu nhập bình quân đầu người tại EU, tương ứng là 2.080 EUR/người so với 29.900 EUR/người. Theo đánh giá của Ủy Ban Châu Âu (European Commission – EC), EVFTA sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp Châu Âu tham gia và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, từ đó sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh. 2.1. Thương mại và đầu tư 2.1.1. Thương mại hàng hóa Trong năm 2017, Châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (19%), chỉ thấp hơn Mỹ (20%) và vượt trên Trung Quốc (14%) (Hình 1). Tổng kim ngạch XNK năm 2017 giữa 2 nền kinh tế là 50,4 tỉ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 38,298 tỉ USD và nhập khẩu 12,132 tỉ USD. Sáu nhóm mặt hàng xuấ ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tác động kinh tế - xã hội của Hiệp định thương mại tự do EU – Việt Nam (EVFTA) Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng TÁC ĐỘNG KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO EU – VIỆT NAM (EVFTA) TS. Huỳnh Thị Diệu Linh Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng 1. Giới thiệu Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam hiện là một trong những nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất trong khu vực ASEAN, chỉ thấp hơn Singapore. Tự do hóa thương mại hàng hóa và dịch vụ cùng với cải thiện đáng kể trong quy định về quyền sở hữu trí tuệ (IPR) cũng làm thay đổi cơ cấu thương mại. Trong năm 2018, Tổng cục Hải quan ghi nhận tổng trị giá hàng hóa xuất nhập khẩu của cả nước lập kỷ lục, đạt 480,17 tỷ USD, tăng hơn 52 tỷ USD về mặt số tuyệt đối so với kết quả thực hiện của một năm trước đó. Kết quả này vẫn còn thấp hơn mức tăng tuyệt đối 76,75 tỷ USD của năm 2017 so với năm 2016. Như vậy, chỉ số độ mở của nền kinh tế Việt Nam (xuất nhập khẩu hàng hóa/GDP) trong năm 2018 ước tính là 196%. Theo WTO, trong năm 2017, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam có vị trí thứ 27 trên thế giới và nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam có thứ hạng 25 trên phạm vi toàn cầu. Kết quả ấn tượng này là nhờ vào quá trình cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với việc hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Từ năm 1995, Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác hàng đầu trong hệ thống kinh tế thế giới như Cộng đồng Châu Âu, Mỹ. Đồng thời, Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối thương mại, đầu tư và hội nhập chính trị tích cực trong phạm vi ASEAN với việc tham gia vào những cam kết mới có tính tham vọng hơn về thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư. Trong mấy năm gần đây, trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam bắt đầu hội nhập kinh tế theo khung khổ ưu đãi đặc biệt với một số đối tác, với việc Việt Nam tham gia vào năm hiệp định thương mại tự do (FTA): ASEAN-Trung Quốc, ASEAN-Ấn Độ, ASEAN-Hàn Quốc, ASEAN-Nhật Bản và ASEAN-Úc-Niu Di-lân. Gần đây, nhờ có sức hút về kinh tế, Việt Nam đã bắt đầu đàm phàn FTA với một số đối tác tiềm năng khác, như Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu. Trong những năm gần đây, hình thức FTA (Free Trade Agreement) “thế hệ mới” song phương hoặc đa phương ngày càng trở nên phổ biến hơn, với phạm vi hợp tác rộng hơn, và dần sẽ có khả năng thay thế cho các thỏa thuận thương mại thế hệ cũ. Một số lượng khá lớn các FTA đã được kí kết và thực hiện gần đây thu hút được rất nhiều sự chú ý, quan sát và đánh giá các tác động xung quanh các hiệp định này, ví dụ như Hiệp định Đối tác thương mại và đầu tư xuyên Đại Tây Dương (TTIP), EVFTA, CPTPP, …. Xu hướng tham gia đàm phán và kí kết các FTA “thế hệ mới” đã trở thành xu thế tất yếu trong thời điểm hiện nay, khi mà sự hợp tác kinh tế song phương hoặc đa phương không còn chỉ dừng ở mức là cắt giảm thuế quan mà còn liên quan đến các vấn đề quan trong khác như lao động, bảo vệ môi trường, khai thác đánh bắt có chọn lọc, hay thậm chí là xã hội dân sự. Hiện nay theo cách xác định của một số tổ chức nghiên cứu trên thế giới, cũng như tại Việt Nam thì chúng ta chỉ mới có 2 FTA “thế hệ mới” đã kết thúc việc đàm phán đó là CPTPP và EVFTA, trong đó CPTPP đã chính thức có hiệu lực từ 01/2019 (Hiền & Bích, 2016; Ninh, 2019; Wang, 2018). Việc xem xét và đánh giá những tác động (có thể xảy ra) của 2 FTA này là vô cùng quan trọng, khi mà xu hướng tham gia kí kết các FTA mới sẽ tuân theo các bộ quy tắc do 2 FTA này đã tạo ra. Nghiên cứu này phục vụ hai mục đích cụ thể. Một là, báo cáo nhằm đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do “thế hệ mới” EVFTA đến nền kinh tế Việt Nam. Để làm được điều này, báo cáo cập nhật nội dung những tài liệu nghiên cứu sẵn có (như các báo cáo của Dự án MUTRAP 2011; European Commission, 2017; v.v.) về đánh giá tác động của EVFTA. Hai là, nghiên cứu xác định những chuẩn bị liên quan ở cả cấp chính sách và doanh nghiệp để đảm bảo rằng việc thực hiện hai FTA “thế hệ mới” này sẽ tạo ra lợi ích ròng tối đa cho nền kinh tế Việt Nam. Sự chuẩn bị này là rất cần thiết vì với phạm vi và mức độ của 107 Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng các hiệp định này có thể đưa đến những cơ hội và thách thức chưa từng có với hoạt động kinh doanh và đầu tư. 2. Tổng quan về quan hệ thương mại EU-Việt Nam Trong khi Việt Nam là một nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển nhanh với tốc độ tăng GDP bình quân là 6,4% trong giai đoạn 2000 – 2017, thì EU lại có tốc độ phát triển không đều, thậm chí tốc độ tăng GDP của EU còn có giá trị âm trong các năm 2009 và 2012. Trong năm 2017, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,8%, cao gần gấp 3 lần tốc độ tăng của EU, 2,4%. Tuy nhiên để so sánh 2 nền kinh tế thì chúng ta cần phải nhìn nhận một thực tế là EU và Việt Nam là 2 đối tác không hề tương đồng trong rất nhiều khía cạnh. Đầu tiên, nền kinh tế của EU lớn hơn và có sức ảnh hưởng hơn rất nhiều so với Việt Nam. Tổng GDP của EU gấp 80 lần so với GDP của Việt Nam, trong khi dân số chỉ gấp 5 lần. Điều đó dẫn đến một khía cạnh tiếp theo là thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ khoảng bằng 1/15 so với thu nhập bình quân đầu người tại EU, tương ứng là 2.080 EUR/người so với 29.900 EUR/người. Theo đánh giá của Ủy Ban Châu Âu (European Commission – EC), EVFTA sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp Châu Âu tham gia và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam, từ đó sẽ tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh. 2.1. Thương mại và đầu tư 2.1.1. Thương mại hàng hóa Trong năm 2017, Châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam (19%), chỉ thấp hơn Mỹ (20%) và vượt trên Trung Quốc (14%) (Hình 1). Tổng kim ngạch XNK năm 2017 giữa 2 nền kinh tế là 50,4 tỉ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 38,298 tỉ USD và nhập khẩu 12,132 tỉ USD. Sáu nhóm mặt hàng xuấ ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Quyền sở hữu trí tuệ Hiệp định thương mại tự do Chính sách thu hút FDI Quan hệ thương mại EU-Việt Nam Thương mại hàng hóaGợi ý tài liệu liên quan:
-
Những hạn chế trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam và giải pháp khắc phục hạn chế
18 trang 348 0 0 -
17 trang 211 0 0
-
'Phần mềm tự do và phần mềm nguồn mở' Free and Open Source Software – Asia-Pacific Consultation
5 trang 132 0 0 -
Vấn đề phát triển bền vững trong lao động sau hai năm thực thi EVFTA
10 trang 106 0 0 -
12 trang 93 0 0
-
Khuyến nghị nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
7 trang 88 0 0 -
Giáo trình Kinh tế thương mại đại cương: Phần 1
95 trang 88 0 0 -
Rủi ro hối đoái và đầu tư trực tiếp của nước ngoài – nghiên cứu tại Việt Nam
5 trang 64 0 0 -
Bài giảng Pháp luật đại cương: Bài 8.1 - ThS. Bạch Thị Nhã Nam
103 trang 55 0 0 -
13 trang 52 0 0