Theo thống kê, tại các nước phát triển, tỷ lệ trẻ sơ sinh mắc phải hội chứng tắc nghẽn đường mật (biliary atresia) là khoảng 1/15.000. Đây là một bệnh trong đó dịch mật bị ứ đọng trong gan do đường mật bị tắc hoặc không phát triển đầy đủ. Hiện tượng này nhanh chóng dẫn đến các rối loạn về tiêu hóa, chức năng giải độc, tổn thương cho gan và tiến triển thành xơ gan. Hội chứng tắc mật thường được phân làm hai loại: dạng phoi (embryonic), khi trẻ có bệnh ngay sau khi sinh hay...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tắc nghẽn đường mật ở trẻ em: Nhận biết, chăm sóc và điều trị? Tắc nghẽn đường mật ở trẻ em: Nhận biết, chăm sóc và điều trị?Theo thống kê, tại các nước phát triển, tỷ lệ trẻ sơsinh mắc phải hội chứng tắc nghẽn đường mật(biliary atresia) là khoảng 1/15.000. Đây là mộtbệnh trong đó dịch mật bị ứ đọng trong gan dođường mật bị tắc hoặc không phát triển đầy đủ.Hiện tượng này nhanh chóng dẫn đến các rối loạnvề tiêu hóa, chức năng giải độc, tổn thương chogan và tiến triển thành xơ gan.Hội chứng tắc mật thường được phân làm hai loại:dạng phoi (embryonic), khi trẻ có bệnh ngay sau khisinh hay trẻ sơ sinh, chiếm khoảng 70-80% vớinhững biểu hiện bệnh lý trong vòng hai tuần sau khitrẻ chào đời. Nguyên nhân của hội chứng này chưađược xác định, mặc dù một vài tác giả nghi ngờ khảnăng tự miễn (do các tế bào của hệ miễn dịch tấncông đường mật gây viêm). Theo nhận định chung: ditruyền không có vai trò quan trọng. Các nghiên cứuhiện nay đều hướng vào virut reivirus týp 3 vàcytomegalovirus như các tác nhân có thể gây rabệnh. Ngoài viêm tắc đường mật, khoảng 10%trường hợp bệnh nhi còn mắc phải các dị tật ở tim,mạch máu, lá lách và đường tiêu hóa.Những biểu hiện của tắc đường mậtTrong những trường hợp điển hình, trẻ sinh ra hoàntoàn bình thường. Các biểu hiện của bệnh bắt đầuxuất hiện từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 8 sau khi sinh:vàng da, giảm cân, nước tiểu có màu sạm, phânkhông có màu (như màu đất sét trắng). Muộn hơn,bệnh nhi có thể bị tăng áp suất tĩnh mạch cửa, phìnhlá lách và có thể dẫn đến chảy máu ở các nội tạng.Suy gan có thể là nguyên nhân gây tử vong nếu bệnhtiếp tục phát triển và không điều trị được hiệu quả.Thường bệnh xảy ra nhiều hơn với các bé gái. Ngoàinhững biểu hiện lâm sàng, các thử nghiệm cận lâmsàng sau đây có thể dùng để chẩn đoán bệnh:- Thử nghiệm sinh hóa cho thấy lượng bilirubin (sắctố mật) tăng cao trong máu.- Chụp Xquang hoặc siêu âm có thể chỉ ra sự phìnhto của gan và lá lách.- HIDA scan (thử nghiệm phóng xạ để xác định mứcđộ lưu thông của dịch mật).- Cholangiogram (chụp quang tuyến đường mật).- Làm sinh thiết gan để xác định mức độ tổn thươngcủa gan và loại bỏ các nguyên nhân khác.Trong một số trường hợp, các bác sĩ phải mổ để trựctiếp xem xét đường mật và chẩn đoán xác định hộichứng tắc nghẽn mật.Phương pháp điều trị tắc đường mậtPhương pháp Kasai là đề xuất của bác sĩ Nhật: MorioKasai (1959). đây là phẫu thuật để tạo ra đường lưuthông mật từ gan bằng một phần của ruột non. Thànhcông của phẫu thuật này phụ thuộc vào tuổi của bệnhnhi (tối ưu nhất là 2-3 tháng tuổi), mức độ hư hỏngcủa gan và tay nghề của bác sĩ phẫu thuật. Theo cáctài liệu, biện pháp này có thể làm giảm triệu chứngcủa bệnh, nhất là bệnh vàng da cho khoảng hơn 60%bệnh nhi. Các biến chứng có thể xảy ra là: viêmnhiễm, dị tạng, ngứa, vàng da, phù nề...Đáng tiếc là một số trẻ có những tiến bộ đáng kể sauphẫu thuật Kasai đã bị tái phát các triệu chứng củabệnh và mắc phải các biến chứng nặng nề do tắcnghẽn đường mật như to gan, lách to, giãn các tĩnhmạch ở các nội tạng, xơ gan, suy gan, nhiễm khuẩnnặng như viêm phổi, viêm tụy... Theo các nghiên cứu,sau phẫu thuật Kasai có khoảng trên 50% bệnh nhisống được độ 5 năm và khoảng 30% sống được độ10 năm. Cũng theo các tài liệu này, có khoảng 50%trẻ em sau phẫu thuật Kasai đã cần phải ghép gantrước 5 năm. Hơn ba phần tư số trẻ em này cần ghépgan trước tuổi 20 và chỉ một phần tư có thể sống vớinhững biện pháp chữa chạy cầm cự.Phương pháp ghép ganTheo tạp chí Tiêu hóa và Dinh dưỡng Nhi khoa, tắcnghẽn đường mật là nguyên nhân hay gặp nhất dẫnđến suy gan và cần phải ghép gan cho trẻ bệnh. Tìmđược gan để ghép và thực hiện thành công việc ghépgan đã rất tốn kém, phức tạp, nhưng ngay cả trongnhững trường hợp may mắn, sau khi được ghép gan,bệnh nhi cũng cần uống thuốc chống đào thải,thường có nhiều hiệu quả phụ.Chăm sóc dinh dưỡng với trẻ bệnhCác bệnh nhi bị tắc nghẽn đường mật được ghép gancũng như chưa được ghép gan thường cần đến sựchăm sóc và điều trị thường xuyên để khắc phục cáctriệu chứng cũng như cải thiện phần nào chất lượngcuộc sống. Một số nghiên cứu trong chuyên khoa ganmật cho thấy: những trẻ này cần một chế độ dinhdưỡng với các thức ăn dạng lỏng và có nhiều nănglượng cũng như các vitamin. Sữa mẹ vẫn là thức ănhoàn hảo nhất cho các bệnh nhi này. Các vitamin A,D, E và K cần phải được dùng bổ trợ vì khả năng hấpthụ của chúng giảm đi đáng kể khi đường mật bị tắcnghẽn. Một số bác sĩ còn khuyên dùng actigall(ursodiol - axít mật thường dùng để tăng lưu thôngmật, trị sỏi mật và bệnh viêm xơ gan do tắc mật tiênphát ở người lớn - Primary Biliary Cirrhosis) với hyvọng kìm hãm được phần nào sự tiến triển của cácbiến chứng cho bệnh nhi bị tắc nghẽn đường mật.Một số dược thảo có tác dụng lợi mật, tăng khả năngdẫn mật và chống viên như: Bìm bịp, hoàng bá, bồcông anh, nhân trần bắc và các sản phẩm cận sinh(probiotic)... có thể giúp các cháu giảm bớt triệuchứng do tắc nghẽn mật, ngộ độc, viêm đường mậtcũng như bội nhiễm. Các thuốc thảo mộc này còn cótác dụng bảo vệ gan nên có thể giúp giảm đi các tổnthương ở gan. Theo kinh nghiệm y học cổ truyền, cácloại củ như: Hoài sơn (củ mài hay còn gọi là sơndược), các hạt như ý dĩ (ý dĩ nhân) có thể dùng trongbữa ăn của trẻ bị tắc nghẽn mật vì ngoài vai trò lànguồn dinh dưỡng rất đầy đủ, dễ hấp thụ, các thứcăn (vị thuốc) này còn có thể nâng cao sức đề kháng,giảm co thắt, chống viêm và phù, tăng cường chứcnăng tiêu hóa và hấp thụ dưỡng chất cho bệnh nhi. ...