Thông tin tài liệu:
Luật bản quyền liên quan đến việc bảo hộ và khai thác sự thể hiện các ý tưởng ở dạng hữu hình. Luật này được xây dựng nhằm đáp lại các sáng chế về máy in thời đó đã khiến cho việc sản xuất hàng loạt tác phẩm in trở thành hiện thực.
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY HỌC VỀ - SỞ HỮU TRÍ TUỆ
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU
TRÍ TUỆ
CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY
Professor Michael Blakeney
Queen Mary Intellectual Property Research Institute
University of London
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Giáo sư Michael Blakeney
Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary
Đại học London
Provided and translated by
the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II)
Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II)
dịch và cung cấp
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp
Bài 2 Quyền tác giả
1. Giới thiệu
Luật bản quyền liên quan đến việc bảo hộ và khai thác sự thể hiện các ý tưởng ở dạng hữu
hình. Luật này được xây dựng nhằm đáp lại các sáng chế về máy in thời đó đã khiến cho
việc sản xuất hàng loạt tác phẩm in trở thành hiện thực. Bối cảnh công nghệ khi luật được
triển khai lý giải cách thức mà các khái niệm về quyền tác giả được hình thành. Ví dụ,
luật chú trọng tới các quyền của tác giả và những người yêu cầu thông qua tác giả; nó bảo
hộ các “tác phẩm gốc” và chỉ khi các tác phẩm này được định hình dưới dạng vật chất.
Quyền cơ bản mà luật quy định chính là ngăn chặn việc sao chép tác phẩm của những
người không được tác giả cho phép. Để được bảo hộ quyền tác giả, các ý tưởng phải được
thể hiện dưới dạng gốc - nghĩa là chúng phải bắt nguồn từ chính lao động của người sáng
tạo. Các tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng của chúng.
Lúc sơ khởi, đối tượng bảo hộ của quyền tác giả là các tác phẩm in văn học, nghệ thuật.
Do công nghệ tạo hình ngày càng được cải thiện nên việc bảo hộ được mở rộng tới các
bản vẽ kỹ thuật, bản đồ, họa đồ, các tác phẩm ba chiều như điêu khắc, kiến trúc và các tác
phẩm nhiếp ảnh, điện ảnh. Gần đây, việc bảo hộ quyền tác giả được mở rộng tới các
chương trình máy tính, được đối xử như là các tác phẩm văn học hoặc bộ sưu tập các tác
phẩm văn học.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, việc bảo hộ quyền tác giả được áp dụng không chỉ
đối với các cuốn sách và bài báo học thuật, mà còn đối với các sổ sách ghi chép của
phòng thí nghiệm và các báo cáo nghiên cứu, bản mô tả các trình tự gen, ảnh và bản mô tả
đồ hoạ hoặc đồ thị của các kết quả nghiên cứu.
Chủ sở hữu của một tác phẩm được bảo hộ có quyền không cho người khác sử dụng tác
phẩm khi chưa được phép. Các hành vi cần được sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả
thường là: sao chép hoặc nhân bản; trình diễn tác phẩm trước công chúng; ghi âm tác
phẩm; làm phim từ tác phẩm; phát sóng tác phẩm qua quang phổ điện từ hoặc truyền cáp;
biên dịch hoặc mô phỏng tác phẩm. Các vấn đề đặc biệt sẽ phát sinh khi các tác phẩm
được tạo ra thông qua việc nghiên cứu hợp tác hoặc giao việc.
2
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Bên cạnh các quyền này, các “quyền tinh thần” nhất định cũng được thừa nhận bởi Công
ước Berne 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, được thực thi theo luật
quốc gia ở các nước ký kết. Các quyền này bao gồm quyền yêu cầu về sở hữu tác phẩm,
quyền phản đối bất kỳ sự làm sai lệch, cắt xén, sửa chữa hoặc hành vi xuyên tạc khác liên
quan tới tác phẩm gây phương hại tới danh dự hoặc uy tín của tác giả. Các vấn đề đặc biệt
có thể phát sinh khi các quyền về tinh thần này được yêu cầu bởi một thành viên của
nhóm nghiên cứu đối với cách thức mà các kết quả nghiên cứu được truyền bá.
Thoả ước TRIPS đưa ra sự linh hoạt trong định nghĩa về việc sử dụng hợp lý các bản sao
tác phẩm khi chưa được phép nhằm đạt được các mục tiêu xã hội và kinh tế. Các quốc gia
có thể cho phép sao chép một cách có giới hạn tác phẩm nhằm mục đích giảng dạy,
nghiên cứu, cho các thư viện, viện bảo tàng và các tổ chức từ thiện. Công nghệ phân tích
ngược các chương trình máy tính nhằm mục đích phát triển phần mềm cạnh tranh cũng
được TRIPS cho phép. Việc giải mã như vậy là cơ sở cho việc phát triển các ngành công
nghiệp phần mềm ở nhiều nước đang phát triển.
Công ước Berne đưa ra một danh mục dài nhưng không đầy đủ những đối tượng được coi
là “các tác phẩm văn học và nghệ thuật”. Tuy nhiên, bất kỳ sự sáng tạo nào của trí óc
cũng có thể được bảo hộ quyền tác giả một khi nó thoả mãn các yêu cầu của Công ước
Berne theo cách thức mà các yêu cầu này được thực thi bởi các quốc gia khác nhau.
Ví dụ, các tác phẩm công nghệ mới hoặc dựa trên công nghệ cũng được bảo hộ, như các
chương trình máy tính, cơ sở dữ liệu và các tác phẩm đa phương tiện.
Quyền tác giả bảo hộ “các tác phẩm” là sự thể hiện của các suy nghĩ và ý tưởng. Bản thân
các ý tưởng và suy nghĩ thì không được bảo hộ.
Lịch sử quyền tác giả gắn bó chặt chẽ với sự phát triển công nghệ. Các hình thức bảo hộ
quyền tác giả đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ 15 khi công nghệ in xuất hiện và sự nhân bản
chữ viết của con người đã trở thành hiện thực. Luật Bản quyền hoàn chỉnh đầu tiên xuất
hiện ở Anh vào năm 1710. Tiếp đó là Phổ và Pháp cũng nằm trong số các quốc gia đầu
tiên này.
2. Sử dụng quyền tác giả
3
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào khả năng sáng tạo của người dân ở
quốc gia đó, và việc khuyến khích khả năng sáng tạo cá nhân và truyền bá nó là điều
kiện thiết yếu cho sự tiến bộ. Quyền tác giả là yếu tố cấu thành quan trọng của quá trình
phát triển ...