Mặc dù đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cần bộc lộ đầy đủ thông tin để sáng chế có thể vận hành được (ví dụ: làm việc được), vẫn còn một số lượng đáng kể các bí quyết thương mại cần thiết để chuyển một sáng chế được bảo hộ thành có khả năng khai thác thương mại thực sự
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu giảng dạy về Sở hữu trí tuệ - Bài 6
CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY
Professor Michael Blakeney
Queen Mary Intellectual Property Research Institute
University of London
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Giáo sư Michael Blakeney
Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary
Đại học London
Provided and translated by
the EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II)
Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II)
dịch và cung cấp
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấp
Bài 6: Bí mật thương mại
1. Giới thiệu
Mặc dù đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền sáng chế cần bộc lộ đầy đủ thông tin để sáng
chế có thể vận hành được (ví dụ: làm việc được), vẫn còn một số lượng đáng kể các bí
quyết thương mại cần thiết để chuyển một sáng chế được bảo hộ thành có khả năng khai
thác thương mại thực sự. Như vậy, việc thương mại hoá một sáng chế thông qua một
doanh nghiệp sản xuất thường liên quan đến các công việc sau: (i) Nghiên cứu tiền đầu tư,
kể cả việc chuẩn bị nghiên cứu khả thi và báo cáo dự án; (ii) Công việc kỹ thuật kể cả
việc chuẩn bị mô tả máy móc, thiết kế nhà máy và bố trí phân xưởng; (iii) Lựa chọn thiết
bị, xây dựng nhà máy, lắp đặt máy móc, thiết bị và khởi động nhà máy; (iv) mua công
nghệ sản xuất; và (v) hỗ trợ kỹ thuật sau giai đoạn lắp đặt, kể cả các chương trình đào tạo
và hỗ trợ quản lý. Tuy nhiên, khác với sáng chế, không tồn tại hệ thống đăng ký bí quyết
kỹ thuật (know how), chúng chỉ được bảo hộ khi được xem là bí mật hoặc nếu có hạn chế
đối với việc phổ biến thông tin.
Trường hợp đối với hợp đồng lao động của người làm thuê, hầu hết các hệ thống theo
thông luật (common law) đều có điều khoản hợp đồng cấm người làm công tiết lộ thông
tin vốn được coi là thuộc sở hữu của chủ thuê lao động. Thông tin này bao gồm phần lớn
các thông tin liên quan đến việc thương mại hóa tài sản trí tuệ liệt kê trên đây, như thiết
kế nhà máy và thiết bị, phương pháp sản xuất và danh sách khách hàng. Điều khoản hợp
đồng này chỉ áp dụng đối với người làm thuê. Để ngăn chặn bên thứ ba thực hiện các
hành vi sai trái về mua và sử dụng các bí mật thương mại của người khác, toà án có quyền
áp dụng các chế tài công bằng và bắt bên thứ ba bồi thường thiệt hại đối với các .
Ví dụ:
Một ví dụ cổ điển về một bí quyết thương mại có giá trị là công thức sản xuất Coca-Cola,
một loại nước uống có từ 1866.
Công ty Coca-Cola dựa vào hệ thống an ninh và truy tố, xét xử để bảo vệ sáng chế của
họ. Ví dụ, bí mật thương mại được cất giữ trong hầm két nhà băng tại Atlanta, Hoa Kỳ, và
chỉ được mở bởi Hội đồng giải quyết tranh chấp.
Việc lựa chọn đối tượng này để cấp bằng sáng chế sẽ là mạo hiểm. Nếu người bất kỳ đó
độc lập tạo ra một sáng chế thì người đó không xâm phạm quyền đối với sáng chế gốc.
2
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
Ngoài ra, nếu người khác có thể sử dụng kỹ thuật phân tích ngược đối với sáng chế đó để
có được thông tin bí mật, họ có thể bộc lộ thông tin đó cho công chúng, triệt tiêu lợi thế
thương mại của bí mật đó. Trong các trường hợp như vậy, đăng ký sáng chế có thể là sự
lựa chọn cần thiết.
2. Nghĩa vụ giữ bí mật theo hợp đồng
Trong các giao dịch sở hữu trí tuệ ví dụ như li-xăng công nghệ (chuyển giao quyền sử
dụng công nghệ), thông tin nhạy cảm có thể cần phải được bộc lộ khiến cho bên kia có thể
quyết định có tham gia hợp đồng li-xăng hay không. Trong các tình huống này, thông
thường các bên yêu cầu đưa vào nội dung hợp đồng điều khoản về bộc lộ thay vì chỉ đơn
giản dựa vào pháp luật chung về vi phạm cam kết giữ bí mật.
Loại hợp đồng sở khởi này sẽ là Hợp đồng “giữ bí mật” hoặc hợp đồng “không tiết lộ”,
theo đó bên nhận thông tin cam kết sẽ không sử dụng, tiết lộ, sao chép hoặc bằng cách
khác xử lý thông tin được cung cấp mà không được phép của người có thông tin đó.
Thông thường hợp đồng bao gồm điều khoản yêu cầu hoàn trả, trong một thời hạn nhất
định, các bản sao tài liệu dạng giấy chứa thông tin đó; hoặc yêu cầu hoàn trả tài liệu nếu
không một hợp đồng nào được ký kết giữa các bên.
Một tình huống thường gặp khác, trong đó có quy định các nghĩa vụ giữ bí mật theo hợp
đồng, là hợp đồng tuyển dụng người lao động. Thông thường, khi những người làm công
sẽ phải xử lý các thông tin thương mại có giá trị và nhạy cảm, , các điều khoản về bộc lộ
và sử dụng thông tin bởi người lao động sẽ được đưa vào hợp đồng tuyển dụng lao động.
3. Luật Bí mật thương mại của Hoa Kỳ
Trước hết, có một hành vi gây thiệt hại ở Hoa Kỳ được gọi là “sự chiếm đoạt/biển thủ
một bí mật thương mại”. Điều này đòi hỏi thông tin phải là một “bí mật thương mại”, , ví
dụ như bí mật sử dụng trong kinh doanh, đó thực sự là bí mật (chưa được công chúng biết
đến) và bí mật đó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho người nắm giữ nó. Ngoài ra, còn có yêu
cầu rằng bí mật thương mại bị chiếm đoạt/biển thủ, ví dụ, bí mật đó có được theo cách
không theothông lệ hoặc vi phạm nguyên tắc bí mật hoặc biết được một số yếu tố nhất
định.
Hành vi chiếm đoạt trái phép bí mật thương mại được pháp điển hóa thành luật tại nhiều
Bang của Hoa Kỳ. Pháp luật về bí mật thương mại tại các Bang này được mô hình hoá
trong Đạo luật thống nhất về Bí mật thương mại, mặc dù tồn tại một số khác biệt trong dự
thảo luật của các Bang.
Pháp luật của nhiều bang cũng có quy định riêng biệt về tội hình sự đối với hành vi bộc lộ
trái phép bí mật thương mại (ví dụ, Bộ luật hình sự của Bang California, Điều ...