Thông tin tài liệu:
Hoạt động mua bán quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện thông qua các giao dịch pháp lý giữa chủ sở hữu quyền độc quyền và pháp nhân hoặc thể nhân nhận các quyền đó. Những mối quan hệ pháp luật đó về cơ bản mang bản chất hợp đồng, nghĩa là bên chuyển giao công nghệ đồng ý chuyển giao và bên nhận chuyển giao đồng y tiếp nhận các quyền đang được nói đến
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu giảng dạy về Sở hữu trí tuệ - Bài 7CURRICULUM ON INTELLECTUAL PROPERTY Professor Michael Blakeney Queen Mary Intellectual Property Research Institute University of LondonTÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ Giáo sư Michael Blakeney Viện nghiên cứu Sở hữu trí tuệ Queen Mary Đại học London Provided and translated bythe EC-ASEAN Intellectual Property Rights Co-operation Programme (ECAP II) Tài liệu này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) dịch và cung cấp Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ cung cấpBài 7. Chuyển nhượng và chuyển quyền sử dụng cácđối tượng sở hữu trí tuệGiới thiệuHoạt động mua bán quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện thông qua các giao dịch pháp lýgiữa chủ sở hữu quyền độc quyền và pháp nhân hoặc thể nhân nhận các quyền đó. Nhữngmối quan hệ pháp luật đó về cơ bản mang bản chất hợp đồng, nghĩa là bên chuyển giaocông nghệ đồng ý chuyển giao và bên nhận chuyển giao đồng ý tiếp nhận các quyền đangđược nói đến.Chuyển nhượng là việc chủ sở hữu bán tất cả các quyền SHTT độc quyền của mình vàđược một cá nhân khác hoặc pháp nhân khác mua các quyền đó. Khi tất cả các quyền độcquyền đối với một sáng chế đã được bảo hộ được chủ sở hữu của nó chuyển giao cho mộtcá nhân hoặc một pháp nhân khác mà không có một giới hạn bất kỳ về thời gian hoặc cácđiều kiện khác, thì “việc chuyển nhượng” các quyền đó được xem như đã được thực hiện.Khái niệm chuyển nhượng này được luật pháp nhiều nước công nhận.Hành vi pháp lý khi chủ sở hữu một sáng chế được bảo hộ chuyển giao các quyền đó chongười khác được thể hiện bằng văn bản dưới hình thức một tài liệu pháp lý thường đượcgọi là “văn bản chuyển nhượng” hay đơn giản hơn, một “chuyển nhượng”. Bên chuyểngiao được gọi là “bên chuyển nhượng” và cá nhân hoặc pháp nhân kia, bên nhận chuyểngiao, được gọi là “bên nhận chuyển nhượng”. Khi việc chuyển nhượng được tiến hành,“bên chuyển nhượng” không còn một quyền bất kỳ về SHTT. “Bên nhận chuyển nhượng”trở thành chủ sở hữu mới của SHTT và được phép thực thi tất cả các quyền độc quyền củachủ sở hữu quyền ban đầu.Li-xăng là việc chủ sở hữu SHTT cho phép cá nhân hoặc pháp nhân khác thực thi tại mộtnước và trong một thời hạn quyền SHTT nhất định một hoặc nhiều hành vi trong phạm vicác quyền độc quyền về SHTT tại nước đó. Khi có được sự cho phép đó, một “li-xăng” sẽ 2 Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấpđược cấp. Tài liệu pháp lý chứng minh sự cho phép của chủ sở hữu SHTT này thườngđược gọi là “hợp đồng li-xăng” hoặc, đơn giản hơn, một “li-xăng”.Chủ sở hữu SHTT thực hiện việc cho phép được gọi là “bên chuyển quyền”. Cá nhânhoặc pháp nhân nhận sự cho phép được gọi là “bên được chuyển quyền”. Li-xăng thườngđược cấp với những điều kiện nhất định được quy định tại các tài liệu bằng văn bản màtrong đó li-xăng được cấp cho bên được chuyển quyền. Tại một số nước, hình thức pháplý của văn bản chứng minh việc chuyển nhượng hay hợp đồng li-xăng cũng như các thủtục và yêu cầu khác liên quan đến việc chuyển nhượng hoặc chuyển giao quyền sử dụngđược quy định bởi luật SHTT, luật chuyển giao công nghệ hoặc luật thương mại. Vì vậy,có thể áp đặt một yêu cầu là văn bản chuyển nhượng quyền SHTT phải đảm bảo các thủtục để có hiệu lực theo một cách thức riêng, ví dụ, có thể yêu cầu văn bản này phải đượcký bởi không chỉ bên chuyển nhượng mà cả bên nhận chuyển nhượng. Ngoài ra, tại mộtsố nước, luật SHTT có thể quy định văn bản chuyển nhượng hoặc hợp đồng li-xăng phảiđược trình để đăng ký tại các cơ quan sáng chế. Bằng hành vi đăng ký, bên nhận chuyểnnhượng hoặc bên nhận chuyển giao li-xăng được Chính phủ công nhận là bên nhận hoặcchủ sở hữu các quyền được chuyển nhượng hoặc được chuyển giao li-xăng.Luật pháp cũng có thể quy định các điều khoản và điều kiện quy định trong văn bảnchuyển nhượng hoặc trong hợp đồng li-xăng phải được một hoặc nhiều cơ quan chính phủđược chỉ định xem xét hoặc thẩm định và thông qua. Ví dụ, nếu công nghệ được tiếp nhậntừ nước ngoài hoặc phải thực hiện việc chi trả bằng ngoại tê, luật pháp có thể quy định ủyban đầu tư nước ngoài hoặc ngân hàng trung ương hay cả hai xem xét và thông qua cácđiều khoản trong văn bản chuyển nhượng hoặc hợp đồng li-xăng.2. Các nguyên tắc hợp đồngMối quan hệ pháp luật giữa bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao chủ yếu mang bảnchất hợp đồng, có nghĩa là tất cả các khía cạnh của mối quan hệ này sẽ do luật ...