Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội
Số trang: 10
Loại file: pdf
Dung lượng: 152.42 KB
Lượt xem: 15
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
14:31 | 23/08/2007 Suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước (1945 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một mẫu mực tuyệt vời của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đôi với không ngừng tăng cường vai trò, sức mạnh của luật pháp. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật và về quản lý xã hội. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao tư cách người cách mạng....
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội 14:31 | 23/08/2007 Suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước (1945 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một mẫu mực tuyệt vời của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đôi với không ngừng tăng cường vai trò, sức mạnh của luật pháp. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật và về quản lý xã hội. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao tư cách người cách mạng. Người đã dày công đào luyện đội ngũ cán bộ vừa biết trọn đời hy sinh cho lý tưởng cao đẹp, vừa biết gắn bó máu thịt với nhân dân và hòa mình vào cuộc đấu tranh vì nhân loại tiến bộ; đồng thời biết sống một cuộc sống giản dị và trong sạch. Khi giành được chính quyền về tay nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng xác lập được địa vị pháp lý hợp hiến của chính quyền dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân; đưa những giá trị đạo đức, nhân văn hòa quyện trong pháp luật Việt Nam, và làm cho nó có hiệu lực trong thực tế. 1 - Tư tưởng và tấm gương mẫu mực về sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Trong lịch sử trị quốc, bình thiên hạ; hay hiểu theo cách nói ngày nay là quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng đã có những người, những trường phái, những chủ thuyết tìm cách tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của từng yếu tố riêng lẻ. Chẳng hạn, thuyết nhân trị của Khổng Tử khác với thuyết pháp trị của Tuân Tử, Lý Tư, Hàn Phi Tử... Nhưng, nói chung những đấng minh quân được coi là thành công trong sự nghiệp trị nước đều là những người vừa tôn Nho vừa trọng Pháp, vừa biết kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người như thế ở tính kế thừa những tinh hoa quản lý đất nước của loài người, và hơn thế ở tính sáng tạo độc đáo, riêng có của Người. Người là mẫu mực của sự chú trọng giáo dục đạo đức và cũng không ngừng tăng cường vai trò của pháp luật. Tinh thần và phương pháp xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước, quản lý xã hội là sự kết hợp hài hòa đạo đức và pháp luật. Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó nhằm biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu, càng rộng, thậm chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Có lẽ, cũng do vậy, pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được coi là pháp luật tối đa. Vì có những vi phạm đạo đức mà pháp luật không thể xét xử nhưng con người vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt của lương tâm, dư luận. Tìm được những điểm tương giao trong mối quan hệ qua lại giữa đạo đức và pháp luật để kết hợp và xử lý vấn đề; đó cũng là nét rất tinh tế, độc đáo ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người ta còn nhớ xung quanh vụ xìcăngđan mang hàng buôn lậu của Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Kinh tế Chính phủ liên hiệp kháng chiến nhân chuyến đi Phông-ten-nơ-blô (Pháp, năm1946), dư luận xì xào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ thái độ kiên quyết ngay từ ngày 3- 10-1946 trong Kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa đầu tiên. Người nói: Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các ủy ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị(1). Người thường căn dặn cán bộ các cấp: Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.(2). Biết rõ khi có Nhà nước, cần phải đề phòng những khuyết tật nảy sinh như là một thuộc tính của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng sự quan tâm, giáo dục của Người vào những cán bộ có chức, có quyền mắc những căn bệnh như trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí... Người đòi hỏi cán bộ phải: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, và ghi sâu những chữ công bình, chính trực vào lòng. Người biểu dương những cán bộ tốt và cũng tỏ thái độ rất nghiêm khắc với những tệ nạn như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí. Người nhấn mạnh: Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung(3). Và vụ á ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội 14:31 | 23/08/2007 Suốt 24 năm ở cương vị đứng đầu Nhà nước (1945 - 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một mẫu mực tuyệt vời của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đôi với không ngừng tăng cường vai trò, sức mạnh của luật pháp. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật và về quản lý xã hội. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao tư cách người cách mạng. Người đã dày công đào luyện đội ngũ cán bộ vừa biết trọn đời hy sinh cho lý tưởng cao đẹp, vừa biết gắn bó máu thịt với nhân dân và hòa mình vào cuộc đấu tranh vì nhân loại tiến bộ; đồng thời biết sống một cuộc sống giản dị và trong sạch. Khi giành được chính quyền về tay nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhanh chóng xác lập được địa vị pháp lý hợp hiến của chính quyền dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân; đưa những giá trị đạo đức, nhân văn hòa quyện trong pháp luật Việt Nam, và làm cho nó có hiệu lực trong thực tế. 1 - Tư tưởng và tấm gương mẫu mực về sự kết hợp đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội Đạo đức và pháp luật đều là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh vực khác nhau. Trong lịch sử trị quốc, bình thiên hạ; hay hiểu theo cách nói ngày nay là quản lý nhà nước, quản lý xã hội cũng đã có những người, những trường phái, những chủ thuyết tìm cách tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của từng yếu tố riêng lẻ. Chẳng hạn, thuyết nhân trị của Khổng Tử khác với thuyết pháp trị của Tuân Tử, Lý Tư, Hàn Phi Tử... Nhưng, nói chung những đấng minh quân được coi là thành công trong sự nghiệp trị nước đều là những người vừa tôn Nho vừa trọng Pháp, vừa biết kết hợp giáo dục đạo đức với tăng cường pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người như thế ở tính kế thừa những tinh hoa quản lý đất nước của loài người, và hơn thế ở tính sáng tạo độc đáo, riêng có của Người. Người là mẫu mực của sự chú trọng giáo dục đạo đức và cũng không ngừng tăng cường vai trò của pháp luật. Tinh thần và phương pháp xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý nhà nước, quản lý xã hội là sự kết hợp hài hòa đạo đức và pháp luật. Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó nhằm biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu, càng rộng, thậm chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Có lẽ, cũng do vậy, pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được coi là pháp luật tối đa. Vì có những vi phạm đạo đức mà pháp luật không thể xét xử nhưng con người vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt của lương tâm, dư luận. Tìm được những điểm tương giao trong mối quan hệ qua lại giữa đạo đức và pháp luật để kết hợp và xử lý vấn đề; đó cũng là nét rất tinh tế, độc đáo ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người ta còn nhớ xung quanh vụ xìcăngđan mang hàng buôn lậu của Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Kinh tế Chính phủ liên hiệp kháng chiến nhân chuyến đi Phông-ten-nơ-blô (Pháp, năm1946), dư luận xì xào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ thái độ kiên quyết ngay từ ngày 3- 10-1946 trong Kỳ họp thứ hai của Quốc hội khóa đầu tiên. Người nói: Chính phủ hiện thời đã cố gắng liêm khiết lắm. Nhưng trong Chính phủ, từ Hồ Chí Minh cho đến những người làm việc ở các ủy ban làng đông lắm và phức tạp lắm. Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị(1). Người thường căn dặn cán bộ các cấp: Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh.(2). Biết rõ khi có Nhà nước, cần phải đề phòng những khuyết tật nảy sinh như là một thuộc tính của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hướng sự quan tâm, giáo dục của Người vào những cán bộ có chức, có quyền mắc những căn bệnh như trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí... Người đòi hỏi cán bộ phải: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, và ghi sâu những chữ công bình, chính trực vào lòng. Người biểu dương những cán bộ tốt và cũng tỏ thái độ rất nghiêm khắc với những tệ nạn như: trái phép, cậy thế, hủ hóa, chia rẽ, tư túng, tham ô, lãng phí. Người nhấn mạnh: Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung(3). Và vụ á ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
Tư tưởng hồ chí minh triết học kinh tế học giáo trình- giáo án luận văn- báo cáoGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Kinh tế vi mô - PGS.TS Lê Thế Giới (chủ biên)
238 trang 579 0 0 -
40 trang 444 0 0
-
27 trang 345 2 0
-
Đề cương môn Kinh tế học đại cương - Trường ĐH Mở TP. Hồ Chí Minh
6 trang 330 0 0 -
Giáo trình Chính trị (Trình độ: Trung cấp nghề) - Trường Trung cấp nghề Củ Chi
84 trang 302 1 0 -
Tiểu luận triết học - Ý thức và vai trò của ý thức trong đời sống xã hội
13 trang 286 0 0 -
20 trang 284 0 0
-
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2019)
144 trang 271 7 0 -
34 trang 250 0 0
-
128 trang 249 0 0