Tập đoàn nên chỉ là danh hiệu?
Số trang: 3
Loại file: pdf
Dung lượng: 120.87 KB
Lượt xem: 7
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Tập đoàn nên chỉ là danh hiệu?
Khoan bàn luận về việc có cần thiết phải có nghị định này hay không, trong bài viết này, người viết chỉ xin bàn luận về khái niệm thế nào là tập đoàn kinh tế, bởi nếu không nhận rõ được khái niệm này thì dù có xây dựng bao nhiêu mô hình, ban hành bao nhiêu nghị định thì kết quả đem lại sẽ không thể cao. Cho đến thời điểm này, mặc dù có nhều quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả các khái niệm về tập đoàn kinh tế...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tập đoàn nên chỉ là danh hiệu? Tập đoàn nên chỉ là danh hiệu? Khoan bàn luận về việc có cần thiết phải có nghị định này hay không, trong bài viết này, người viết chỉ xin bàn luận về khái niệm thế nào là tập đoàn kinh tế, bởi nếu không nhận rõ được khái niệm này thì dù có xây dựng bao nhiêu mô hình, ban hành bao nhiêu nghị định thì kết quả đem lại sẽ không thể cao. Cho đến thời điểm này, mặc dù có nhều quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả các khái niệm về tập đoàn kinh tế đều thống nhất ở một điểm. Theo đó, tập đoàn kinh tế là một nhóm các doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Mặc dù thống nhất như vậy nhưng trong tư duy, hình như các nhà làm luật và các chuyên gia kinh tế vẫn đang vướng mắc ở một vấn đề. Đó là độ lớn của tập đoàn kinh tế. Nguyên nhân của những tranh cãi có lẽ bắt nguồn từ các nghiên cứu được coi là “sách giáo khoa” trong vấn đề này. Khi nói về tập đoàn kinh tế, hầu như tất cả mọi tài liệu đều cho rằng, tập đoàn kinh tế có các đặc điểm sau: có quy mô lớn, có phạm vi hoạt động rộng; có cơ cấu sở hữu, tổ chức, cơ chế điều hành phức tạp Cũng chính bởi những đặc điểm thường thấy này nên ai cũng nghĩ tập đoàn kinh tế là phải “lớn”. Nhưng vấn đề là ở chỗ cho đến nay không ai rõ thế nào là “lớn”. Vì thế, có vẻ người ta cứ cố lần mò thành lập cái mà bản thân họ cũng không biết rõ đó là cái gì. Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, điều 146, khoản 2 có ghi: “Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây: a) Công ty mẹ - công ty con; b) Tập đoàn kinh tế; c) Các hình thức khác”. Theo hiểu biết có thể còn hạn chế của người viết, công ty mẹ - công ty con là một dạng của tập đoàn kinh tế. Không biết vì sao Luật Doanh nghiệp lại tách thành hai hình thức nhóm công ty khác nhau. Có lẽ vì người soạn luật nghĩ rằng: “Tập đoàn kinh tế” là phải “lớn”, còn nếu “nhỏ” thì không phải là tập đoàn kinh tế mà chỉ là công ty mẹ - công ty con? Tuy nhiên, phải chăng vì bản thân người soạn luật cũng không biết “lớn” là phải như thế nào nên đành đẩy quả bóng “trách nhiệm” sang Chính phủ trong điều 149 của Luật Doanh nghiệp: “Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế.” Sự lằng nhằng trong tư duy này đã dẫn đến một loạt những vấn đề mà không cẩn thận càng đi càng trở nên 'lạc trong rừng rậm”. Giả sử cứ cho rằng tập đoàn kinh tế là phải lớn và Chính phủ đưa ra một con số nào đó về vốn điều lệ ở công ty mẹ để quy ước như trong dự thảo nghị định vừa lấy ý kiến. Mọi chuyện dường như thật đơn giản. Tuy nhiên, sự phức tạp lại bắt đầu từ đây. Giả sử vốn điều lệ của công ty mẹ không thấp hơn 3.000 tỷ đồng được coi là tập đoàn kinh tế. Vậy nếu vì một lý do nào đó, công ty mẹ phải giảm vốn điều lệ xuống dưới 3.000 tỷ thì phải chăng nhóm doanh nghiệp đó sẽ không được coi là tập đoàn kinh tế nữa? Khi đã không còn là tập đoàn kinh tế có thể một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh tập đoàn kinh tế sẽ không còn hiệu lực điều chỉnh nhóm doanh nghiệp này. Sau đó, giả sử công ty mẹ lại tăng vốn điều lệ lên trên 3.000 tỷ. Hoạt động của nhóm doanh nghiệp này lại bị chi phối bởi các quy định của pháp luật liên quan đến tập đoàn kinh tế. Vậy nhóm doanh nghiệp này sẽ phải điều hành hoạt động thế này, nhà nước phải quản lý ra sao? Mặt khác, nếu quy định mức vốn đủ lớn mới có thể trở thành tập đoàn kinh tế thì trở thành tập đoàn kinh tế có lợi ích gì? Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân nữa khiến người ta vẫn cứ tranh luận với nhau là tập đoàn kinh tế có tư cách pháp nhân không vì nếu không có tư cách pháp nhân, không có sự khác biệt gì với nhóm doanh nghiệp khác thì có lẽ cũng chẳng cần thành lập tập đoàn kinh tế làm gì. Trong trường hợp đó, tập đoàn kinh tế có lẽ nên là danh hiệu hơn là mô hình doanh nghiệp bị pháp luật điều chỉnh. Hơn nữa, quy định độ lớn của nhóm doanh nghiệp cũng không thể đơn giản chỉ là vốn điều lệ ở công ty mẹ được. Tại sao lại lấy vốn của một doanh nghiệp thành viên (dù là công ty mẹ) để đại diện cho cả tập đoàn? Phải chăng chính sự vương vấn trong tư duy đó đã dẫn đến việc trong tên một loạt các công ty mẹ tại các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay có thành tố “tập đoàn”. Thực tế cho thấy, việc có thành tố này trong tên gọi đã dẫn đến tình trạng khi nói Tập đoàn Dầu khí chẳng hạn, người ta không hiểu là nói về công ty mẹ hay là nhóm công ty trong tập đoàn. Cũng chính sự không rõ ràng này mới dẫn đến tranh cãi tập đoàn kinh tế có tư cách pháp nhân hay không. Tóm lại, theo quan điểm của người viết, chỉ nên hiểu tập đoàn kinh tế là một nhóm các doanh nghiệp có mối quan hệ “huyết thống” trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề chỉ là định nghĩa mối quan hệ “huyết thống” ấy và tìm cách điều chỉnh mối quan hệ ấy khi cần thiết. Không nên nghĩ rằng một nhóm doanh nghiệp nào đó phải 'lớn' mới là tập đoàn kinh tế. Nếu cứ suy nghĩ như vậy, e rằng việc tranh cãi xung quanh khái niệm tập đoàn kinh tế vẫn cứ sẽ là một chủ đề không có hồi kết. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tập đoàn nên chỉ là danh hiệu? Tập đoàn nên chỉ là danh hiệu? Khoan bàn luận về việc có cần thiết phải có nghị định này hay không, trong bài viết này, người viết chỉ xin bàn luận về khái niệm thế nào là tập đoàn kinh tế, bởi nếu không nhận rõ được khái niệm này thì dù có xây dựng bao nhiêu mô hình, ban hành bao nhiêu nghị định thì kết quả đem lại sẽ không thể cao. Cho đến thời điểm này, mặc dù có nhều quan điểm khác nhau nhưng hầu như tất cả các khái niệm về tập đoàn kinh tế đều thống nhất ở một điểm. Theo đó, tập đoàn kinh tế là một nhóm các doanh nghiệp có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Mặc dù thống nhất như vậy nhưng trong tư duy, hình như các nhà làm luật và các chuyên gia kinh tế vẫn đang vướng mắc ở một vấn đề. Đó là độ lớn của tập đoàn kinh tế. Nguyên nhân của những tranh cãi có lẽ bắt nguồn từ các nghiên cứu được coi là “sách giáo khoa” trong vấn đề này. Khi nói về tập đoàn kinh tế, hầu như tất cả mọi tài liệu đều cho rằng, tập đoàn kinh tế có các đặc điểm sau: có quy mô lớn, có phạm vi hoạt động rộng; có cơ cấu sở hữu, tổ chức, cơ chế điều hành phức tạp Cũng chính bởi những đặc điểm thường thấy này nên ai cũng nghĩ tập đoàn kinh tế là phải “lớn”. Nhưng vấn đề là ở chỗ cho đến nay không ai rõ thế nào là “lớn”. Vì thế, có vẻ người ta cứ cố lần mò thành lập cái mà bản thân họ cũng không biết rõ đó là cái gì. Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, điều 146, khoản 2 có ghi: “Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây: a) Công ty mẹ - công ty con; b) Tập đoàn kinh tế; c) Các hình thức khác”. Theo hiểu biết có thể còn hạn chế của người viết, công ty mẹ - công ty con là một dạng của tập đoàn kinh tế. Không biết vì sao Luật Doanh nghiệp lại tách thành hai hình thức nhóm công ty khác nhau. Có lẽ vì người soạn luật nghĩ rằng: “Tập đoàn kinh tế” là phải “lớn”, còn nếu “nhỏ” thì không phải là tập đoàn kinh tế mà chỉ là công ty mẹ - công ty con? Tuy nhiên, phải chăng vì bản thân người soạn luật cũng không biết “lớn” là phải như thế nào nên đành đẩy quả bóng “trách nhiệm” sang Chính phủ trong điều 149 của Luật Doanh nghiệp: “Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế.” Sự lằng nhằng trong tư duy này đã dẫn đến một loạt những vấn đề mà không cẩn thận càng đi càng trở nên 'lạc trong rừng rậm”. Giả sử cứ cho rằng tập đoàn kinh tế là phải lớn và Chính phủ đưa ra một con số nào đó về vốn điều lệ ở công ty mẹ để quy ước như trong dự thảo nghị định vừa lấy ý kiến. Mọi chuyện dường như thật đơn giản. Tuy nhiên, sự phức tạp lại bắt đầu từ đây. Giả sử vốn điều lệ của công ty mẹ không thấp hơn 3.000 tỷ đồng được coi là tập đoàn kinh tế. Vậy nếu vì một lý do nào đó, công ty mẹ phải giảm vốn điều lệ xuống dưới 3.000 tỷ thì phải chăng nhóm doanh nghiệp đó sẽ không được coi là tập đoàn kinh tế nữa? Khi đã không còn là tập đoàn kinh tế có thể một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh tập đoàn kinh tế sẽ không còn hiệu lực điều chỉnh nhóm doanh nghiệp này. Sau đó, giả sử công ty mẹ lại tăng vốn điều lệ lên trên 3.000 tỷ. Hoạt động của nhóm doanh nghiệp này lại bị chi phối bởi các quy định của pháp luật liên quan đến tập đoàn kinh tế. Vậy nhóm doanh nghiệp này sẽ phải điều hành hoạt động thế này, nhà nước phải quản lý ra sao? Mặt khác, nếu quy định mức vốn đủ lớn mới có thể trở thành tập đoàn kinh tế thì trở thành tập đoàn kinh tế có lợi ích gì? Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân nữa khiến người ta vẫn cứ tranh luận với nhau là tập đoàn kinh tế có tư cách pháp nhân không vì nếu không có tư cách pháp nhân, không có sự khác biệt gì với nhóm doanh nghiệp khác thì có lẽ cũng chẳng cần thành lập tập đoàn kinh tế làm gì. Trong trường hợp đó, tập đoàn kinh tế có lẽ nên là danh hiệu hơn là mô hình doanh nghiệp bị pháp luật điều chỉnh. Hơn nữa, quy định độ lớn của nhóm doanh nghiệp cũng không thể đơn giản chỉ là vốn điều lệ ở công ty mẹ được. Tại sao lại lấy vốn của một doanh nghiệp thành viên (dù là công ty mẹ) để đại diện cho cả tập đoàn? Phải chăng chính sự vương vấn trong tư duy đó đã dẫn đến việc trong tên một loạt các công ty mẹ tại các tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay có thành tố “tập đoàn”. Thực tế cho thấy, việc có thành tố này trong tên gọi đã dẫn đến tình trạng khi nói Tập đoàn Dầu khí chẳng hạn, người ta không hiểu là nói về công ty mẹ hay là nhóm công ty trong tập đoàn. Cũng chính sự không rõ ràng này mới dẫn đến tranh cãi tập đoàn kinh tế có tư cách pháp nhân hay không. Tóm lại, theo quan điểm của người viết, chỉ nên hiểu tập đoàn kinh tế là một nhóm các doanh nghiệp có mối quan hệ “huyết thống” trong hoạt động kinh doanh. Vấn đề chỉ là định nghĩa mối quan hệ “huyết thống” ấy và tìm cách điều chỉnh mối quan hệ ấy khi cần thiết. Không nên nghĩ rằng một nhóm doanh nghiệp nào đó phải 'lớn' mới là tập đoàn kinh tế. Nếu cứ suy nghĩ như vậy, e rằng việc tranh cãi xung quanh khái niệm tập đoàn kinh tế vẫn cứ sẽ là một chủ đề không có hồi kết. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài chính kế toán quản trị tài chính tài chính doanh nghiệp kiểm toánGợi ý tài liệu liên quan:
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
360 trang 757 21 0 -
18 trang 458 0 0
-
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Bùi Văn Vần, TS. Vũ Văn Ninh (Đồng chủ biên)
262 trang 430 15 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 2 - TS. Nguyễn Thu Thủy
186 trang 417 12 0 -
Giáo trình Quản trị tài chính doanh nghiệp: Phần 1 - TS. Nguyễn Thu Thủy
206 trang 367 10 0 -
Chiến lược marketing trong kinh doanh
24 trang 361 1 0 -
3 trang 290 0 0
-
Đề cương học phần Tài chính doanh nghiệp
20 trang 280 0 0 -
Tạo nền tảng phát triển bền vững thị trường bảo hiểm Việt Nam
3 trang 275 0 0 -
Bài giảng: Chương 2: Bảo hiểm hàng hải
94 trang 258 1 0