Tên gọi Hà Nội qua các thời kì lịch sử
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 215.97 KB
Lượt xem: 18
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Chúng tôi xin gửi tới quý vị độc giả một vấn đề xưa cũ của Hà Nội bằng cái nhìn xuyên suốt lịch sử hình thành, phát triển thủ đô về một khía cạnh: Tên gọi Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử.Thăng Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010), mảnh đất địa linh nhân kiệt này đã từng là trọng trấn của phong kiến phương Bắc (nhà Tùy 581-618, nhà Đường 618-907). Từ khi hình thành cho đến...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tên gọi Hà Nội qua các thời kì lịch sử Tên gọi Hà Nội qua các thời kì lịch sửChúng tôi xin gửi tới quý vị độc giả một vấn đề xưa cũ của Hà Nội bằng cái nhìnxuyên suốt lịch sử hình thành, phát triển thủ đô về một khía cạnh: Tên gọi Hà Nộiqua các thời kỳ lịch sử.Thăng Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Trước khi trở thànhkinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010), mảnh đất địa linh nhân kiệt này đã từnglà trọng trấn của phong kiến phương Bắc (nhà Tùy 581-618, nhà Đường 618-907). Từ khihình thành cho đến nay, ngoài tên gọi Hà Nội thì còn có nhiều tên gọi khác nhau đượcchép trong sử sách nhà nước Việt Nam.Long Đỗ: Theo truyền thuyết, lúc Cao Biền nhà Đường vào năm 866 mới đắp thành ĐạiLa, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọiThăng Long là đất Long Đỗ.Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của quân đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618),Đường (618 – 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngàynay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinhđô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là TửCấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành vàngoài cùng là Đại La thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Ðại La thành rộng hơn vàvững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La.Thăng Long (rồng bay lên): Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành têngọi này như sau: “Mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010) Vua Lý Công Uẩn từ thànhHoa Lư, dời đô ra kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiệnlên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.1000 năm Thăng Long Hà NộiĐông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu(1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô”.Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích:“Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳthị kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là “cửa quan phía đông” của nhà nước phong kiếnTrung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đôở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau:“Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), vua (tức Lê Lợi – TM) từ điện tranh ở Bồ Đề vàođóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là ĐạiViệt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành ThăngLong. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh”.Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ – Quang Trung 1787 – 1802 – TM) đóng đô ởPhú Xuân (tức Huế – TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành” (Nguyễn Vinh Phúc – TrầnHuy Bá – Đường phố Hà Nội – H. 1979, tr12).Thăng Long (thịnh vượng lên): Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, GiaLong quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân, không ra Thăng Long, cử NguyễnVăn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miềnBắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi.Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên GiaLong thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “long” làrồng thành chữ “long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nayvua không ở đây thì không được dùng chữ “long” là “rồng”. Việc thay đổi nói trên xảy ranăm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóngđô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.Tên gọi Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1831, Vua Minh Mạng đemkinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủỨng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinhthành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội”. Từ đó tới nay, kinh thành nước Việt giữnguyên tên gọi Hà Nội.Ngoài ra, Thăng Long – Hà Nội còn có một số tên không chính quy như Trường An(Tràng An), Phượng Thành (Phụng Thành), Long Biên, Long thành, Hà thành.. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Tên gọi Hà Nội qua các thời kì lịch sử Tên gọi Hà Nội qua các thời kì lịch sửChúng tôi xin gửi tới quý vị độc giả một vấn đề xưa cũ của Hà Nội bằng cái nhìnxuyên suốt lịch sử hình thành, phát triển thủ đô về một khía cạnh: Tên gọi Hà Nộiqua các thời kỳ lịch sử.Thăng Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Trước khi trở thànhkinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010), mảnh đất địa linh nhân kiệt này đã từnglà trọng trấn của phong kiến phương Bắc (nhà Tùy 581-618, nhà Đường 618-907). Từ khihình thành cho đến nay, ngoài tên gọi Hà Nội thì còn có nhiều tên gọi khác nhau đượcchép trong sử sách nhà nước Việt Nam.Long Đỗ: Theo truyền thuyết, lúc Cao Biền nhà Đường vào năm 866 mới đắp thành ĐạiLa, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọiThăng Long là đất Long Đỗ.Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của quân đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618),Đường (618 – 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngàynay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinhđô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là TửCấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành vàngoài cùng là Đại La thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Ðại La thành rộng hơn vàvững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La.Thăng Long (rồng bay lên): Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành têngọi này như sau: “Mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010) Vua Lý Công Uẩn từ thànhHoa Lư, dời đô ra kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiệnlên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.1000 năm Thăng Long Hà NộiĐông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu(1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô”.Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích:“Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳthị kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là “cửa quan phía đông” của nhà nước phong kiếnTrung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đôở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau:“Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), vua (tức Lê Lợi – TM) từ điện tranh ở Bồ Đề vàođóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là ĐạiViệt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành ThăngLong. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh”.Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ – Quang Trung 1787 – 1802 – TM) đóng đô ởPhú Xuân (tức Huế – TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành” (Nguyễn Vinh Phúc – TrầnHuy Bá – Đường phố Hà Nội – H. 1979, tr12).Thăng Long (thịnh vượng lên): Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, GiaLong quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân, không ra Thăng Long, cử NguyễnVăn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miềnBắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi.Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên GiaLong thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “long” làrồng thành chữ “long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nayvua không ở đây thì không được dùng chữ “long” là “rồng”. Việc thay đổi nói trên xảy ranăm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóngđô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.Tên gọi Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1831, Vua Minh Mạng đemkinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủỨng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinhthành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội”. Từ đó tới nay, kinh thành nước Việt giữnguyên tên gọi Hà Nội.Ngoài ra, Thăng Long – Hà Nội còn có một số tên không chính quy như Trường An(Tràng An), Phượng Thành (Phụng Thành), Long Biên, Long thành, Hà thành.. ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tham quan Kênh Gà du lịch Ninh Bình địa danh việt nam địa lý việt nam địa danh lịch sử du lịch việt nam địa danh nổi tiếngGợi ý tài liệu liên quan:
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 1
144 trang 321 2 0 -
10 trang 90 0 0
-
Tiểu luận: Quảng bá phát triển du lịch Tri Tôn hiện nay - thực trạng và giải pháp
29 trang 80 0 0 -
Du lịch Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá: Cơ hội và thách thức
6 trang 55 0 0 -
Giáo trình Văn hóa ẩm thực: Phần 1
73 trang 55 0 0 -
15 trang 53 0 0
-
Tìm hiểu về du lịch Việt Nam qua 26 di sản thế giới: Phần 1
128 trang 43 0 0 -
146 trang 42 0 0
-
Tìm hiểu địa danh du lịch Việt Nam: Phần 2
176 trang 40 0 0 -
Du lịch và cẩm nang hướng dẫn (Tập 1): Phần 1
305 trang 39 0 0