Thai bám ở sẹo mổ lấy thai cũ là một dạng thai ngoài tử cung do thai làm tổ trong vết sẹo mổ lấy thai trước đó. Đây là dạng bệnh lý hiếm gặp của thai ngoài tử cung. Tuy nhiên, hiện nay với số ca mổ lấy thai ngày càng có khuynh hướng gia tăng nên tỉ lệ thai bám ở vết mổ cũ cũng có thể tăng lên. Tại sao có thai bám ở sẹo mổ lấy thai cũ? Khi trứng đã thụ tinh ở ống dẫn trứng, sau 3 – 4 ngày trứng di chuyển vào buồng...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thai bám ở sẹo mổ lấy thai cũ
Thai bám ở sẹo mổ lấy
thai cũ
Thai bám ở sẹo mổ lấy thai cũ là một dạng thai ngoài tử cung do thai làm tổ
trong vết sẹo mổ lấy thai trước đó. Đây là dạng bệnh lý hiếm gặp của thai
ngoài tử cung. Tuy nhiên, hiện nay với số ca mổ lấy thai ngày càng có khuynh
hướng gia tăng nên tỉ lệ thai bám ở vết mổ cũ cũng có thể tăng lên.
Tại sao có thai bám ở sẹo mổ lấy thai cũ?
K hi trứng đã thụ tinh ở ống dẫn trứng, sau 3 – 4 ngày trứng di chuyển vào
buồng tử cung và 48 giờ sau khi trứng vào buồng tử cung sẽ xâm nhập hoàn
toàn vào bên trong của lớp nội mạc. Đa số trứng thụ tinh sẽ bám ở vùng đáy
tử cung có thể là mặt trước hoặc mặt sau, nơi có lớp nội mạc đ ược chuẩn bị
chu đáo. Nhưng một số trứng khác vẫn có thể bám vào mặt bên, đoạn dưới
hay gần cổ tử cung. Đối với những bà m ẹ có sẹo ở tử cung do lần mổ thai
trước, vị trí sẹo này nằm ở mặt trước ở đoạn eo tử cung. Điều đó có nghĩa là
sự làm tổ của trứng thụ tinh có thể bám vào đúng vị trí sẹo mổ tử cung lần
trước phát triển thành túi thai. Có hai dạng thai bám ở vết sẹo mổ cũ, dạng 1:
thai làm tổ ở sẹo mổ cũ và phát triển chủ yếu trong buồng tử cung; dạng 2:
thai cấy sâu vào trong lớp cơ và phần mô sợi của tử cung ở vị trí sẹo mổ lấy
thai cũ.
N hững nguy hiểm
Đối với dạng bám một phần ở sẹo mổ cũ (dạng 1 ), thai phát triển chủ yếu
trong buồng tử cung, thai vẫn phát triển đến tam cá nguyệt thứ 2 và 3, phần
nhau có thể kéo lên trên ở đoạn thân tử cung, khi thành lập đoạn dưới tử cung
nghĩa là trong giai đoạn đầu thai kỳ nơi đây là đoạn eo tử cung, đoạn eo này
sẽ d ài ra để trở thành đoạn dưới tử cung. Nhau bám thấp hoặc diễn tiến thành
nhau cài răng lược do các gai nhau đan xen vào cơ tử cung.
Đối với dạng 2, thai cấy hoàn toàn vào trong lớp cơ và sẹo mổ, khi thai phát
triển đến tam cá nguyệt thứ 2, thứ 3 có nhiều nguy cơ, các gai nhau trong
bánh nhau sẽ ăn sâu vào cơ tử cung rồi xuyên vào bàng quang, dẫn đến phải
cắt tử cung và tăng tử suất của mẹ và thai nhi, hay khi thai cấy vào trong sẹo
mổ cũ thì biến chứng vỡ tử cung trong lúc mang thai, gây chảy máu ồ ạt và
nguy cơ đe dọa tính mạng mẹ và thai nhi.
C hẩn đoán
Chẩn đoán này nhằm phát hiện sớm thai bám ở vết mổ cũ giúp điều trị bảo
tồn khả năng sinh sản cho bà mẹ.
Các dấu hiệu xảy ra, bà mẹ có dấu hiệu trễ kinh, ra huyết âm đạo bất thường,
đau bụng lâm râm vùng hạ vị. Dùng que thử thai, lên hai vạch, thử Bêta HCG
dương tính. Siêu âm ngả âm đạo, phần phụ hai bên tử cung bình thường, đo
đường kính trước sau của tử cung lớn hơn so với tử cung bình thường (trên
40mm), buồng tử cung trống, nội mạc tử cung dày trên 10mm, kênh cổ tử
cung trống, không có thành phần của túi thai. Tại mặt trước tử cung, phần tiếp
giáp bàng quang có túi thai, có thể có yolksac hay phôi thai (+) và tim thai
(+). Khi đo đường kính túi thai có thể xác định được tuổi thai. Đồng thời, phổ
Doppler trên siêu âm có thấy gia tăng mạch máu quanh túi thai. Mất hay thiếu
lớp cơ bình thường giữa b àng quang và túi thai. Trên siêu âm 3 chiều, có thể
xác đ ịnh chi tiết giải phẫu của lớp tế bào nuôi quanh túi thai, lớp cơ mỏng
giữa túi thai và bàng quang.
Cần phân biệt thai bám ở đoạn eo – cổ tử cung: xuất huyết âm đạo, không
kèm đau b ụng, khi khám âm đạo, tử cung mềm to hay lớn hơn đáy tử cung.
Tất cả thành phần của thai được giới hạn ho àn toàn ở kênh cổ tử cung và bám
chắc vào kênh tử cung khi xác định bằng siêu âm có độ phân giải cao.
Đ iều trị
V iệc điều trị tùy thuộc vào tuổi thai, kích thước túi thai, nguyện vọng còn
sinh sản của bà mẹ và tình trạng huyết động học. Với mục tiêu lấy khối thai
trước khi vỡ và bảo tồn khả năng sinh sản cho bà mẹ.
Phương thức điều trị: hủy thai trong túi ối bằng cách dùng kim hút thai thực
hiện tại phòng mổ. Người bệnh được vô cảm tê hay mê, dưới sự hướng dẫn
siêu âm trên thành bụng. Kim hút thai đưa qua cổ tử đến túi thai để hút làm
sao túi ối được nguyên vẹn, tránh làm chảy máu ở vùng kênh cổ tử cung.
Phương pháp này được áp dụng cho tuổi thai < 12 tuần. Lấy khối thai với
phương thức cổ điển là nong nạo, thực hiện tại phòng mổ, được vô cảm và
phương pháp này có nguy cơ xuất huyết cao có thể kết hợp những phương
thức cơ học khác như chèn bóng sau nạo, sau khi hút thai bằng cách sử dụng
sonde Folley đ ặt nhẹ nhàng qua cổ trong tử cung, sau đó bơm căng bóng
khoảng 30ml nước muối sinh lý chèn tại chỗ 12 – 24 giờ, mục đích cầm máu.
Có thể điều trị hóa trị to àn thân, ngay ở giai đoạn đầu hay điều trị hỗ trợ, hóa
trị có tác dụng giảm sự phân bổ mạch máu ở khối thai và tiêu hủy tế bào
nhau. Hóa trị được chỉ định khi xét nghiệm huyết đồ và chức năng gan, chức
năng thận bình thường. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp làm tắc mạch máu
nuôi bằng thuốc hay phẫu thuật thắt động mạch qua ngả âm đạo.
Theo dõi sau điều trị
N gười bệnh được theo dõi sát sau khi đã được điều trị lấy túi thai ra trong
vòng 24 – 48 giờ tại phòng đ iểm của khoa. Đồng thời điều trị kháng sinh toàn
thân, bù nước điện giải hay có thể truyền máu ...