![Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa sông núi ta trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm](https://timtailieu.net/upload/document/136415/phan-tich-tu-tuong-cua-nhan-dan-qua-doan-tho-039-039-nhung-nguoi-vo-nho-chong-nhung-cuoc-doi-da-hoa-song-nui-ta-039-039-trong-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-136415.jpg)
Thái độ thực chất của Cao Bá Nhạ đối với Cao Bá Quát qua Tự tình khúc và Trần tình văn
Số trang: 5
Loại file: pdf
Dung lượng: 197.45 KB
Lượt xem: 10
Lượt tải: 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:
Thông tin tài liệu:
Thật ra, tấn bi kịch to lớn vô bờ bến của cha con Cao Bá Đạt lại là ở chỗ, các ông tuy chưa được chiếu sáng bởi một luồng tư tưởng tự do dân chủ theo mô hình của xã hội công dân tư sản, hay xã hội dân chủ pháp quyền, nhưng trước cái án quá tàn bạo đối với họ mình, các ông bỗng nhận ra rằng đó là một luật lệ vô nhân đạo bậc nhất, vi phạm quyền sống con người bậc nhất. ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thái độ thực chất của Cao Bá Nhạ đối với Cao Bá Quát qua "Tự tình khúc" và "Trần tình văn" Thái độ thực chất của Cao BáNhạ đối với Cao Bá Quát qua Tự tình khúc và Trần tình văn Thật ra, tấn bi kịch to lớn vô bờ bến của cha con Cao Bá Đạt lại là ở chỗ, các ông tuychưa được chiếu sáng bởi một luồng tư tưởng tự do dân chủ theo mô hình của xã hội côngdân tư sản, hay xã hội dân chủ pháp quyền, nhưng trước cái án quá tàn bạo đối với họ mình,các ông bỗng nhận ra rằng đó là một luật lệ vô nhân đạo bậc nhất, vi phạm quyền sống conngười bậc nhất. Cha con ông muốn vùng vẫy thoát ra khỏi cái luật vô lý đó bởi tư tưởng nhânvăn của thời đại đã ngấm sâu vào các ông, mách bảo các ông hãy sống cho mình, thươngngười và biết thương thân: “Những là sợ gió e sương/ Thương thân chua xót, nghĩ đường xaxôi”. Vì thế, tha thiết yêu cuộc sống, yêu bản thân, Cao Bá Nhạ một mặt tìm mọi cách chứngminh sự trong sạch của mình, bày tỏ niềm khao khát được sống: “Tôi nghĩ rằng: kìa như conhạt dán tuy yếu ớt, còn được dung thân trong hang hốc, con trâu non tuy bé nhỏ, còn khôngbị ruồng bỏ, vẫn có thể dùng để tế thần sơn xuyên, huống hồ con cháu liêm lại(9) lẽ nào chẳngđược đoái hoài, và cảnh ngộ nhà nho dù gặp biến cố mặc lòng, cũng không có tội tình gìđáng chết, vì thế một mặt thì gìn giữ tính hạnh, khỏi thẹn với lòng đọc sách, kể đã hàng thánghàng năm rồi”; mặt khác ông cũngrất dũng cảm, thẳng thắn đề xuất quan điểm về một nềngiáo hóa có nghiêm có khoan: “Tôi mong rằng giáo hóa vừa răn vừa dạy, theo lý nên xét cả tình. Hình phạt có nghĩa,có nhân, trong họa mở ra đường phúc” (Trần tình văn )(10). Trong lá đơn xin ân xá mà một kẻ tử tù dám viết những lời như vậy thì sao có thể quykết là “mất hết khí tiết nhà nho”? Cần nói thêm, giữa thảm họa khủng khiếp của đại gia đình họ Cao, có lẽ, Cao Bá Nhạlà người chịu đựng cái bi kịch tinh thần giai giẳng hơn cả bố và chú: ông không thể hànhđộng giống người cha của mình - tuân thủ quy tắc ứng xử của kinh sách thánh hiền là: “anhhùng khi gấp” thì quyết “sát thân thành nhân”. Dù bị đày đọa muôn phần, dù cái chết đã lơlửng trên đầu, ông vẫn ý thức về bản thân, hy vọng được sống, được trở về đoàn tụ với giađình và với mảnh vườn nhỏ năm xưa: Nỗi ly hận nói năng sao xiết, Tình tương tư nào biết bao nhiêu. Tính xem ly biệt ít nhiều, Thương cho mai cúc nặng điều tương tư. Nhờ trận gió gửi thư thăm hỏi, Mượn bóng giăng giãi mối ân cần. Giá đành phong nguyệt chủ nhân, Nỡ nào đầy đọa phong trần xót thương. Xin hoa chứa phong quang như cũ, Chủ nhân còn đoàn tụ có khi. Rồi càng bị “Đọa đầy một đóa hoa mai / Phẩm tiên lưu lạc trần ai lạ lùng”, càng nhớlại hình ảnh vợ con trong giây phút biệt ly hãi hùng: Tiểu đồng thổn thức xung quanh, Thê, nhi lăn lóc bên mình khóc than. Phút nửa khắc muôn nghìn thê thảm, Trong một mình bảy tám biệt ly. nhà thơ càng thương vợ nhớ con, càng xót xa đau đớn bởi cái mặc cảm chính vì mìnhmà gia đình liên luỵ: Chút đau đớn khuê phòng gối lẻ, Bỗng vì đâu chia rẽ mối tơ. Liễu bồ đôi chút cành thơ, Bao giờ bìu ríu, bao giờ bồng mang? Đã cay đắng nhiều đường rộn rã, Lại nhục nhằn đến cả vợ con, Mấy năm chút nghĩa ôn tồn, Gieo đào, trả mận lòng còn bâng khuâng. Càng thương nhớ, càng nghĩ ngợi, dằn vặt, ông càng khổ tâm muôn phần. Ông tưởngtượng cảnh mình chết cũng không nhắm được mắt: “Mắt kia thác cũng còn giương/ Hồn kiamuốn dứt còn vương nỗi này”. Có lúc ông đã định quyên sinh như cha mình: “Băng hồ rơixuống lầm than/Thà cho một chén tân toan đi đời”, song lại tự nhủ chết đi tuy nhẹ thân,nhưng không tội gì phải chịu chết, nếu chết sau này người đời sẽ nghi ngờ là sợ có tội màphải tự sát, và đối với ông - sống sót còn là một trách nhiệm: Ví liều quyết chẳng tiếc mình, Sạch mình đã vậy, thế tình còn nghi. Rõ ràng, chính vì ý thức rất rõ về sự trong sạch của bản thân, và về sự sống của mìnhcòn quý giá hơn việc liều thân vô nghĩa, nhà thơ lại càng quyết phải sống, để chứng tỏ thântâm trong sáng và nỗi oan khiên của ông cũng như của gia tộc họ Cao: “Phù sinh một sợi tơmành / Giữ gìn di thể như hình thiên kim”. Do đó, tiếng kêu phải sống, phải trở về với đờivang lên da diết trong thơ ông. Hết ngày này đến ngày khác ông trông chờ “một bức xá thư”mà không hề tuyệt vọng. Bị bắt, bị đem ra xét xử và kết trọng tội rồi bị tống vào ngục, nhưngông cố chứng minh sự vô tội của mình. Ông đâu biết rằng, chỉ có dưới ánh sáng của thể chếdân chủ mới thực có luật pháp công bằng, còn với bất cứ một chế độ xã hội nào mà chuyênchế và bạo lực cầm quyền (kể cả bạo lực tinh thần) thì tiếng kêu cứu của dân lành chỉ là gióthoảng thinh không. Cao Bá Nhạ từng giây từng phút quyết không cam bị biến thành sinh vật nuôi nhốt,thuần dưỡng trong cái cũi nhà tù, quyết không chịu đánh mất cá tính bởi vì ông đang sốngtrong ...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thái độ thực chất của Cao Bá Nhạ đối với Cao Bá Quát qua "Tự tình khúc" và "Trần tình văn" Thái độ thực chất của Cao BáNhạ đối với Cao Bá Quát qua Tự tình khúc và Trần tình văn Thật ra, tấn bi kịch to lớn vô bờ bến của cha con Cao Bá Đạt lại là ở chỗ, các ông tuychưa được chiếu sáng bởi một luồng tư tưởng tự do dân chủ theo mô hình của xã hội côngdân tư sản, hay xã hội dân chủ pháp quyền, nhưng trước cái án quá tàn bạo đối với họ mình,các ông bỗng nhận ra rằng đó là một luật lệ vô nhân đạo bậc nhất, vi phạm quyền sống conngười bậc nhất. Cha con ông muốn vùng vẫy thoát ra khỏi cái luật vô lý đó bởi tư tưởng nhânvăn của thời đại đã ngấm sâu vào các ông, mách bảo các ông hãy sống cho mình, thươngngười và biết thương thân: “Những là sợ gió e sương/ Thương thân chua xót, nghĩ đường xaxôi”. Vì thế, tha thiết yêu cuộc sống, yêu bản thân, Cao Bá Nhạ một mặt tìm mọi cách chứngminh sự trong sạch của mình, bày tỏ niềm khao khát được sống: “Tôi nghĩ rằng: kìa như conhạt dán tuy yếu ớt, còn được dung thân trong hang hốc, con trâu non tuy bé nhỏ, còn khôngbị ruồng bỏ, vẫn có thể dùng để tế thần sơn xuyên, huống hồ con cháu liêm lại(9) lẽ nào chẳngđược đoái hoài, và cảnh ngộ nhà nho dù gặp biến cố mặc lòng, cũng không có tội tình gìđáng chết, vì thế một mặt thì gìn giữ tính hạnh, khỏi thẹn với lòng đọc sách, kể đã hàng thánghàng năm rồi”; mặt khác ông cũngrất dũng cảm, thẳng thắn đề xuất quan điểm về một nềngiáo hóa có nghiêm có khoan: “Tôi mong rằng giáo hóa vừa răn vừa dạy, theo lý nên xét cả tình. Hình phạt có nghĩa,có nhân, trong họa mở ra đường phúc” (Trần tình văn )(10). Trong lá đơn xin ân xá mà một kẻ tử tù dám viết những lời như vậy thì sao có thể quykết là “mất hết khí tiết nhà nho”? Cần nói thêm, giữa thảm họa khủng khiếp của đại gia đình họ Cao, có lẽ, Cao Bá Nhạlà người chịu đựng cái bi kịch tinh thần giai giẳng hơn cả bố và chú: ông không thể hànhđộng giống người cha của mình - tuân thủ quy tắc ứng xử của kinh sách thánh hiền là: “anhhùng khi gấp” thì quyết “sát thân thành nhân”. Dù bị đày đọa muôn phần, dù cái chết đã lơlửng trên đầu, ông vẫn ý thức về bản thân, hy vọng được sống, được trở về đoàn tụ với giađình và với mảnh vườn nhỏ năm xưa: Nỗi ly hận nói năng sao xiết, Tình tương tư nào biết bao nhiêu. Tính xem ly biệt ít nhiều, Thương cho mai cúc nặng điều tương tư. Nhờ trận gió gửi thư thăm hỏi, Mượn bóng giăng giãi mối ân cần. Giá đành phong nguyệt chủ nhân, Nỡ nào đầy đọa phong trần xót thương. Xin hoa chứa phong quang như cũ, Chủ nhân còn đoàn tụ có khi. Rồi càng bị “Đọa đầy một đóa hoa mai / Phẩm tiên lưu lạc trần ai lạ lùng”, càng nhớlại hình ảnh vợ con trong giây phút biệt ly hãi hùng: Tiểu đồng thổn thức xung quanh, Thê, nhi lăn lóc bên mình khóc than. Phút nửa khắc muôn nghìn thê thảm, Trong một mình bảy tám biệt ly. nhà thơ càng thương vợ nhớ con, càng xót xa đau đớn bởi cái mặc cảm chính vì mìnhmà gia đình liên luỵ: Chút đau đớn khuê phòng gối lẻ, Bỗng vì đâu chia rẽ mối tơ. Liễu bồ đôi chút cành thơ, Bao giờ bìu ríu, bao giờ bồng mang? Đã cay đắng nhiều đường rộn rã, Lại nhục nhằn đến cả vợ con, Mấy năm chút nghĩa ôn tồn, Gieo đào, trả mận lòng còn bâng khuâng. Càng thương nhớ, càng nghĩ ngợi, dằn vặt, ông càng khổ tâm muôn phần. Ông tưởngtượng cảnh mình chết cũng không nhắm được mắt: “Mắt kia thác cũng còn giương/ Hồn kiamuốn dứt còn vương nỗi này”. Có lúc ông đã định quyên sinh như cha mình: “Băng hồ rơixuống lầm than/Thà cho một chén tân toan đi đời”, song lại tự nhủ chết đi tuy nhẹ thân,nhưng không tội gì phải chịu chết, nếu chết sau này người đời sẽ nghi ngờ là sợ có tội màphải tự sát, và đối với ông - sống sót còn là một trách nhiệm: Ví liều quyết chẳng tiếc mình, Sạch mình đã vậy, thế tình còn nghi. Rõ ràng, chính vì ý thức rất rõ về sự trong sạch của bản thân, và về sự sống của mìnhcòn quý giá hơn việc liều thân vô nghĩa, nhà thơ lại càng quyết phải sống, để chứng tỏ thântâm trong sáng và nỗi oan khiên của ông cũng như của gia tộc họ Cao: “Phù sinh một sợi tơmành / Giữ gìn di thể như hình thiên kim”. Do đó, tiếng kêu phải sống, phải trở về với đờivang lên da diết trong thơ ông. Hết ngày này đến ngày khác ông trông chờ “một bức xá thư”mà không hề tuyệt vọng. Bị bắt, bị đem ra xét xử và kết trọng tội rồi bị tống vào ngục, nhưngông cố chứng minh sự vô tội của mình. Ông đâu biết rằng, chỉ có dưới ánh sáng của thể chếdân chủ mới thực có luật pháp công bằng, còn với bất cứ một chế độ xã hội nào mà chuyênchế và bạo lực cầm quyền (kể cả bạo lực tinh thần) thì tiếng kêu cứu của dân lành chỉ là gióthoảng thinh không. Cao Bá Nhạ từng giây từng phút quyết không cam bị biến thành sinh vật nuôi nhốt,thuần dưỡng trong cái cũi nhà tù, quyết không chịu đánh mất cá tính bởi vì ông đang sốngtrong ...
Tìm kiếm theo từ khóa liên quan:
tài liệu văn học văn học nghị luận quan điểm văn học văn học tham khảo nghị luận văn họcTài liệu liên quan:
-
9 trang 3436 1 0
-
Viết đoạn văn so sánh ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương và thơ bà Huyện Thanh Quan
2 trang 797 0 0 -
Phân tích bài thơ 'Trở về quê nội' của Lê Anh Xuân
7 trang 758 0 0 -
Phân tích tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu
13 trang 741 0 0 -
6 trang 617 0 0
-
2 trang 460 0 0
-
Thuyết minh về tác gia văn học Xuân Diệu
6 trang 409 0 0 -
4 trang 390 0 0
-
Bình giảng về tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
9 trang 336 0 0 -
Đề thi học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 8 năm 2021-2022 có đáp án - Phòng GD&ĐT Châu Đức
4 trang 247 0 0