Danh mục

Thăng Long – Hà Nội là trái tim Tổ Quốc

Số trang: 6      Loại file: pdf      Dung lượng: 376.13 KB      Lượt xem: 16      Lượt tải: 0    
10.10.2023

Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thăng Long – Hà Nội trái tim tổ quốc mà cách nay ngót ngàn năm, khi chọn đất để thực hiện ý chí “muốn đóng đô ở trung tâm mưu toan nghiệp lớn. Tính kế muôn đời cho con cháu” đức vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư hiểm yếu đã tìm đến một linh địa mà “Chiếu rời đô” đã chỉ rõ: “Ở trung tâm cõi bờ đất nước, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc, tiện hình thể sông núi sau trước. Ở đó địa thế rộng mà...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thăng Long – Hà Nội là trái tim Tổ Quốc Thăng Long – Hà Nội là trái tim Tổ QuốcThăng Long – Hà Nội trái tim tổ quốc mà cách nay ngót ngàn năm, khi chọn đất đểthực hiện ý chí “muốn đóng đô ở trung tâm mưu toan nghiệp lớn.Tính kế muôn đời cho con cháu” đức vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư hiểm yếu đã tìm đến mộtlinh địa mà “Chiếu rời đô” đã chỉ rõ: “Ở trung tâm cõi bờ đất nước, được cái thế rồngcuộn hổ ngồi, vị trí ở giữa bốn phương đông, tây, nam, bắc, tiện hình thể sông núi sautrước. Ở đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vìngập lụt, muôn vật rất phong phú và tốt tươi. Xem khắp đất Đại Việt chỗ ấy là nơi hơncả, thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương”.Khách sạn MétropoleVà mùa thu năm 1010, nước Đại Việt của triều Lý đã định đô nơi mảnh đất từ bờ consông Hồng, khi đoàn thuyền ngự cập bến, Lý Thái Tổ đã thấy hiển hiện trong trí tưởngtượng của mình một con rồng huyền thoại vươn mình bay lên. Ngài bèn đặt tên cho kinhđô của quốc gia Đại Việt là “Thăng Long” như đặt niềm tin tưởng cho thế hệ nước vươnmình bước vào một thiên niên kỷ mới.Sử gia Ngô Thì Sỹ sau này viết rằng “xét về sự quyết đoán sáng suốt, mưu kế anh hùng,thực những vua tầm thường không thể theo kịp” (Đại Việt sử ký tiền biên); còn Bác Hồtrong diễn ca “Lịch sử nước ta” thì coi Lý Thái Tổ là một vị vua “phi thường”. Chọn đấtThăng Long làm kinh đô, Lý Thái Tổ không phải tìm đến vùng đất mới lạ mà chính là trởvề với cội nguồn. Cách đó chẳng bao lâu và bao xa, Ngô Vương Quyền, người anh hùngcái thế đã chỉ một lần đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (938) đã giành lạiquyền tự chủ cho dân Việt, chấm dứt một thiên niên kỷ bắc thuộc chẳng đã đóng đô tạiCổ Loa, đế đô xưa thời An Dương Vương xây Thành Ốc, cũng rất gần nơi Ông Giónghiển thánh (Sóc Sơn) sau khi đánh thắng giặc Ân, kề với nơi Hai Bà Trưng đã “nốinghiệp Vua Hùng” để “Lĩnh Nam riêng một triều đình” (Mê Linh). Và cũng soi bóng núiTản sông Hồng, Thăng Long, Cổ Loa đều chầu về đất Tổ Phong Châu, kinh đô huyềnthoại đời các Vua Hùng dựng nước.Bách ThảoNhư vậy, chỉ rất ngắn ngủi vài thập kỷ buộc vua Đinh phải chọn nơi hiểm yếu Hoa Lư đểlo ổn định đất nước, tiếp đó vua Lê Đại Hành từng xuất quân nối nghiệp Đinh TiênHoàng và nối chí Ngô Vương Quyền đại thắng giặc Tống lần nữa trên sông Bạch Đằng(981) thì việc định đô của Lý Thái Tổ vào năm 1010 chính là sự nối lại mạch xưa sau mộtnghìn năm mất nước.Kể từ đó trải dài 8 thế kỷ liên tục, Thăng Long dù có lúc mang tên khác như Đông Đô(thời Hồ), Đông Quan (thời giặc Minh tạm chiếm) hay Đông Kinh (thời Hậu Lê)… thìmãi mãi vẫn là kinh đô nước Đại Việt, là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm” như sau nàynhà thơ nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Đình Thi đã cảm nhận.Đền hàng hoa trên đất của các làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp và Khán Xuân.Và đất Thăng Long ấy không chỉ là nơi xây “tám điện ba cung”, có thành quách, cungvua phủ chúa, là nơi đô hội trù phú, đến thế kỷ XV, XVI khi các thương nhân, giáo sĩ haydu khách phương Tây đặt chân tới đã từng để ca ngợi và nhắc đến các địa danh nổi tiếngnhư Paris hay Venise mà nó còn là nguồn lực tinh thần để “mưu toan nghiệp lớn, tính kếmuôn đời”. Lịch sử 8 thế kỷ đã chứng kiến nhiều bước thăng trầm của lịch sử ThăngLong cũng là số phận của quốc gia Đại Việt. Từng trải qua biết bao thử thách: trong vòng30 năm (1258-1288) ba lần kinh thành bị bỏ ngỏ để giặc Nguyên Mông chiếm đóng;những trận tàn phá của giặc Chiêm thời cuối Trần; 20 năm ròng mang tên Đông Quan vàtrị sở của giặc Minh; rồi những cuộc tương tàn giữa cung vua phủ chúa và phân tranhTrịnh – Nguyễn… khiến thành quách, dinh thự, phố phường có kẻ phá người xây. Nhưngmãi mãi Thăng Long vẫn là nơi quyết định vận mệnh sống còn của dân tộc. Để gìn giữkinh thành Thăng Long, nhà Lý dựng chiến tuyến trên dòng Như Nguyệt để từ đó vanglên lời thơ thần gắn với tên tuổi anh hùng Lý Thường Kiệt: “Nam quốc sơn hà Nam ĐếCư”. Không chỉ có Bạch Đằng mà còn có những địa danh Đông Bộ Đầu, Chương DươngĐộ, Hàm Tử Quan… quyết định 3 lần chiến thắng giặc Nguyên – Mông. Không chỉ cóChí Linh, Chi Lăng, Xương Giang mà chính tại bến Bồ Đề bên thành Đông Quan, đạibản doanh của Bình Định Vương Lê Lợi và vị mưu sĩ kiệt xuất Nguyễn Trãi đã “tâmcông” đánh bại ý chí xâm lược của giặc Minh, tổ chức Hội thề Đông Quan để nêu rõchính nghĩa sáng ngời “Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, Lấy chí nhân thay cường bạo”, rồiđể lại dấu tích trên hồ Hoàn Kiếm biểu trưng cho lòng chuộng hòa bình, ưa hòa hiếu củadân tộc ta. Và hào hùng hơn hết là trận thần tốc đại phá giặc Thanh vào mùa Xuân nămKỷ Dậu ghi dấu bằng chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa và hình ảnh người anh hùngQuang Trung chiến bào xanh màu thuốc súng tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Longđúng ngày Tết rực rỡ sắc hoa đào (1789). Do vậy, câu nói “Thăng Long phi chiến địa”phải chăng chỉ là ao ước về một trái tim quốc gia đã ươm mầm văn hiến thuở khởi công ítlo dựng ...

Tài liệu được xem nhiều: