Danh mục

Thập bát ban võ nghệ

Số trang: 4      Loại file: pdf      Dung lượng: 130.40 KB      Lượt xem: 8      Lượt tải: 0    
Thư viện của tui

Phí lưu trữ: miễn phí Tải xuống file đầy đủ (4 trang) 0
Xem trước 2 trang đầu tiên của tài liệu này:

Thông tin tài liệu:

Thập bát ban võ nghệ hay 18 ban binh khí là thuật ngữ dùng để chỉ 18 môn loại binh khí cơ bản trong hệ thống chương trình của các môn phái võ thuật Trung Hoa cũng như một số môn phái võ cổ truyền Việt Nam, đặc biệt là các hệ phái có xuất xứ từ Bình Định, Nam Bộ. Binh khí cổ đại gồm rất nhiều loại nhưng được hệ thống hóa thành 18 môn loại. Đây là biểu hiện của quan niệm của người xưa cho rằng số 9 là số cùng của chữ số (vì nếu...
Nội dung trích xuất từ tài liệu:
Thập bát ban võ nghệ Thập bát ban võ nghệThập bát ban võ nghệ hay 18 ban binh khí là thuật ngữ dùng để chỉ 18môn loại binh khí cơ bản trong hệ thống chương trình của các môn phái võthuật Trung Hoa cũng như một số môn phái võ cổ truyền Việt Nam, đặc biệtlà các hệ phái có xuất xứ từ Bình Định, Nam Bộ.Binh khí cổ đại gồm rất nhiều loại nhưng được hệ thống hóa thành 18 mônloại. Đây là biểu hiện của quan niệm của người xưa cho rằng số 9 là số cùngcủa chữ số (vì nếu thêm 1 vào số 9 thì sẽ thành số 10 thêm 1. Trong 10 vị trí,số hạng 10 lại trở thành chữ số bé nhất) vì vậy triết học, số học và lý họcphương Đông dùng số 9 hay bội số của số 9 để biểu thị số mục nhiều. 18 làbội số của 9, vì vậy thập bát ban võ nghệ trở thành thuật ngữ được dùng chotới ngày nay.[sửa] Lịch sửTheo huyền sử của Trung Quốc, đao, thương và cung tên do Hoàng Đế, mộtvị vua trong Ngũ Đế sống khoảng thế kỷ 26 trước Công nguyên đến thế kỷ21 trước Công nguyên, tạo ra. Tuy nhiên lịch sử nhân loại cho thấy, từ thờiđồ đá con người đã biết sử dụng gậy gỗ, dao đá, búa đá, là những loại binhkhí nguyên thủy trong cuộc đấu tranh sinh tồn chống lại các loài thú dữ vàcác bộ tộc hiếu chiến khác. Đến thời đồ đồng, các bộ lạc hoang sơ đã biết sửdụng đồng xanh (thanh đồng) mài làm dao, thương, việt (búa) v.v. và sau đólà thời đồ sắt với những vũ khí đầu tiên (không kể những công cụ sản xuất)được làm bằng sắt đúc. Đến đời Minh Trung Quốc (1368-1644), các loại vũkhí ngày càng đa dạng và cơ bản đã được phân chia thành 18 loại.Tuy nhiên thuật ngữ thập bát ban võ nghệ hay thập bát ban binh khítrong lịch sử Trung Hoa cũng như Việt Nam thời cổ đại chưa hề thấy xuấthiện. Tạ Triệu Chiết đời Minh trong cuốn Ngũ tạp trở và Chử Nhân Hoạchđời Thanh trong Kiên hồ tập đều đã nói đến thập bát ban võ nghệ. Rõ ràngkhái niệm thập bát ban võ nghệ do người đời sau sáng tác ra, nhưng lịchđại cụ thể của thuật ngữ thì chưa ai xác định được, đòi hỏi những nghiên cứuhết sức công phu khác để có thể tìm về nguyên khởi.[sửa] Môn loạiThập bát ban võ nghệ do niên đại, vùng đất và các chi phái võ thuật khácnhau có những quan niệm khác nhau, dẫn đến tình trạng ít nhiều thiếu thốngnhất về mặt khái niệm. Từ xưa đến nay có hàng chục cách hiểu về hệ thốngnày:[sửa] Trung Quốc 1. Theo cuốn Ngũ tạp trở và Kiên hồ tập: mười tám ban binh khí bao gồm cung, nỏ, thương, đao, kiếm, mâu, thuẫn (khiên, mộc che), phủ, việt, kích, tiên (roi), giản, qua, thù (một loại côn bằng tre gỗ có cạnh, không có lưỡi), soa (đinh ba có ba mũi cao ngang nhau hoặc mũi giữa cao hơn), cương soa (vũ khí có 2 mũi nhọn), bừa, dây xích mềm, bạch đả (tay không tức quyền thuật). Người đời sau gọi đây là mười tám ban nhỏ (tiểu thập bát ban).2. Gọi là mười tám ban lớn (đại thập bát ban) có: đao, thương, kiếm, kích, côn, bổng (một loại gậy ngắn hơn côn), sóc (một loại binh khí cổ, cán dài hơn mâu), đáng, phủ (búa), việt, sản (kiểu như xẻng), bừa (bà), giản, chùy, soa, qua, mâu.3. Gần hơn nữa thì chia 18 ban binh khí ra chín dài và chín ngắn. Chín dài gồm: thương, kích, côn, việt, soa, đáng, siêu, câu, sóc, hoàn (vòng càn khôn, một loại vòng có những lưỡi dao gắn trên). Chín ngắn gồm: đao, kiếm, quải, phủ (búa), tiên, giản, chùy, bổng (gậy), chử (cái chày).4. Cách lý giải khác gồm đao, thương, kiếm, kích, đáng, côn, soa, bừa, tiên, giản, chùy, phủ (búa), câu, liềm, quải, cung tên, đằng bài.5. Một cách lý giải nữa gồm mâu, đáng, đao, qua, sóc, tiên, giản, kiếm, chùy, trảo, kích, câu, việt, phủ, bài, bổng, thương, sao.6. Thêm vào đó, còn cách phân loại: đao, thương, kiếm, kích, phủ, việt, câu, soa, tiên, giản, tên, chùy, trảo, đáng, liềm, sóc, côn, bổng.7. Một lý giải khác cũng không kém phần phổ biến: đao, thương, kiếm, kích, việt, côn, soa, bừa, tiên, giản, chùy, phủ, câu, liềm, trảo đới (dây, song thủ đới), lan mã phù (phù chặn ngựa), cung tên.8. Cũng không hiếm khi thập bát ban võ nghệ chỉ đao, thương, kiếm, kích, côn, soa, bừa, tiên (roi), giản, chùy, phủ, câu, liềm, trảo, hoàn (vòng), quải, đáng, cung tên (cung thỉ). 9. Ngày nay, giới võ thuật hiện đại giải thích 18 ban vũ khí là đao, thương, kiếm, kích, phủ, việt, câu, soa, tiên, giản, chùy, đáng, côn, sóc, bổng, quải, lưu tinh (chùy), trảo (móc câu).[sửa] Việt NamỞ Việt Nam trong võ cổ truyền Bình Định, thập bát ban võ nghệ được lý giảigồm mười tám môn loại: siêu đao, thương, giáo (một loại binh khí dài hơnthương), mác, kiếm, xà mâu, khiên, phủ hay phủ việt (búa), kích, roi, giản,chùy, đinh ba, cào, côn, dây vải hay dải lụa có buộc vật nặng ở đầu, tô, thủcước (tay, chân, quyền). Hệ thống thập bát ban võ nghệ Việt Nam đã có từthời Lê, thời Nguyễn và được đưa vào nội dung khảo hạch, thi cử để tuyểnchọn các cử nhân, tiến sĩ võ. Nội dung thi tuyển này chủ yếu bao gồm bắncung, phóng lao, lăn khiên, cưỡi ngựa, múa giáo, múa siêu đao, múa kiếm,đấu kích, múa côn, đánh quyền v.v. ...

Tài liệu được xem nhiều: